Khi VIP cho tặng cổ phiếu

Gần đây, thị trường chứng khoán chộn rộn quanh những sự kiện tặng, cho cổ phiếu hoặc chia lại tài sản bằng cổ phiếu với số lượng lớn. Giá những cổ phiếu đó trên thị trường đã bị ảnh hưởng vì những thắc mắc và nghi vấn đã xảy ra về tính trung thực của những giao dịch này.

Xét trên góc độ pháp lý, một số những hành vi “tặng cho” cổ phiếu cần phải có sự xem xét thấu đáo. Đối với những cổ phiếu của các công ty cổ phần mới được thành lập chưa quá 3 năm, dù đã là công ty đại chúng hay chưa, thì các cổ phiếu của thành viên Hội đồng quản trị thường là cổ phiếu của cổ đông sáng lập.

Những cổ phiếu sáng lập này không được phép chuyển nhượng cho người không phải là cổ đông sáng lập của công ty. Việc chuyển nhượng chỉ được thực hiện khi có sự chấp thuận của Đại hội đồng cổ đông của công ty đó. Quy định này nhằm ràng buộc trách nhiệm của cổ đông sáng lập là phải cam kết sát cánh với công ty.

Hơn nữa, trong các mẫu điều lệ do các Phòng đăng ký kinh doanh, các bộ phận đổi mới (cổ phần hoá) doanh nghiệp hoặc Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước đưa ra thường có quy định này. Nhiều công ty sau khi cổ phần hoá có quy định là các thành viên Hội đồng quản trị phải có trách nhiệm nắm giữ số cổ phiếu của mình và không được chuyển nhượng trong vòng 3 năm kể từ ngày có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh mới xác nhận công ty cổ phần.

Mặc dù pháp luật quy định như vậy, nhưng một số người đã tìm cách vượt qua giới hạn này. Tại các quy định về công ty cổ phần của Luật Doanh nghiệp và Luật Chứng khoán, không hề có quy định về “tặng, cho” cổ phần. Do vậy, một số người trong cuộc thường vận dụng đúng pháp luật bằng việc “tặng, cho” số cổ phiếu mà không phải là “chuyển nhượng”.

Việc “tặng, cho” này thường không phải thông qua Đại hội đồng cổ đông mà chỉ phải xin ý kiến của Hội đồng quản trị (nếu điều lệ có quy định) – mà đây là chỗ “anh em” cả nên rất dễ được thông qua. Những cuộc “tặng, cho” thường có giá trị lớn nhưng tính số cổ phần của giao dịch thì không bao giờ bị vượt quá 5%. Bởi vượt quá tỷ lệ này thì Luật Doanh nghiệp yêu cầu phải thông báo cho cơ quan đăng ký kinh doanh và là số lượng trở thành “cổ đông lớn” mà Luật Chứng khoán đòi hỏi phải thông báo.

Cách làm của họ như vậy là không trái với các quy định của pháp luật. Để tránh cho thị trường bị “mẫn cảm” với hành vi trên, một số Hội đồng quản trị các công ty đã thông báo rằng, họ đã buộc người chủ sở hữu mới của số cổ phần đó không được bán ra thị trường ngay lập tức.

Tuy nhiên, nhiều người “nghi hoặc” về khả năng thực thi của thông báo đó. Bởi lẽ, những người đó không được coi là cổ đông sáng lập hay thành viên Hội đồng quản trị, cổ phiếu của họ được “tặng, cho” sẽ là cổ phiếu phổ thông và không hề bị ràng buộc về thời hạn nắm giữ. Họ sẽ dễ dàng chuyển nhượng cho người khác mà Hội đồng quản trị không thể kiểm soát được.

Trong cơn sốt chứng khoán vừa qua và hiện nay, một số người có được cơ hội trở thành cổ đông sáng lập của công ty cổ phần mới thành lập hay thành viên Hội đồng quản trị của công ty cổ phần hoá. Họ biết cách để làm cho giá cổ phiếu của doanh nghiệp tăng cao. Đến một thời điểm nhất định, những người đó đã bán một phần cổ phiếu mà mình nắm giữ. Họ có thể bán “chui” số cổ phiếu đó bằng những “giấy cam kết” hoặc “giấy đặt cọc mua cổ phiếu”, một phương thức phổ biến được nhiều người chấp nhận trên thị trường OTC. Thông qua “bán chui”, họ vẫn là thành viên Hội đồng quản trị hay cổ đông sáng lập và họ vẫn có quyền điều hành doanh nghiệp (ở một chừng mực nào đó, họ có thể làm cho giá của cổ phiếu giảm xuống để mua lại). Nếu không “bán chui” được thì “tặng, cho”. Như vậy, cổ đông và nhà đầu tư khác phải chịu rủi ro.

Trong phương thức quản trị kinh doanh mới ngày nay, nhiều chủ sở hữu doanh nghiệp (bao gồm cổ đông sáng lập, cổ đông lớn) của doanh nghiệp đã coi hành vi sở hữu vốn lâu dài tại doanh nghiệp là sự cam kết “đi theo cuộc hành trình” với các cổ đông và nhà đầu tư khác. Kết quả của hành vi này là tạo được niềm tin của thị trường nói chung về trách nhiệm của họ đối với doanh nghiệp, và gần ngay đó là niềm tin về sản phẩm, dịch vụ mà doanh nghiệp đó tạo ra.

Còn nếu chỉ chú trọng tới “khoản lợi nhuận” trước mắt của cá nhân mình thì sẽ làm cho thị trường mất ngay niềm tin vào doanh nghiệp về sự cam kết và khả năng quản trị cũng như nhiều vấn đề khác. Và như vậy, hậu quả của sự mất niềm tin đó chắc nhiều người cũng hình dung ra, khi thực tế một số doanh nghiệp “tiếng tăm” đã bị lãnh hậu quả.