Trở ngại trong việc đi tìm động lực tăng trưởng mới
Ông Luis Blancas, tác giả chính của báo cáo nhận định, Việt Nam đã có sự tăng trưởng kinh tế đều đặn trong 20 năm qua. Kết quả tăng trưởng vững chắc có được chủ yếu là nhờ sự gia tăng nhanh chóng của lực lượng lao động và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang các lĩnh vực sản xuất, chế biến, dịch vụ có năng suất cao hơn. Đặc biệt, Việt Nam còn có “lợi thế dân số” nhờ một lực lượng lao động trẻ, năng động và tỉ lệ phụ thuộc ngày càng giảm. Trong khi mức lương ở Trung Quốc trong 10 năm qua tăng ở mức 2 con số, chi phí nhân công ở Việt Nam vẫn khá hấp dẫn so với các nước cạnh tranh ở các khu vực Đông và Nam Á. Lợi thế này đã giúp Việt Nam tiếp tục thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt là những công ty đa quốc gia đang tìm kiếm cơ hội đặt cơ sở sản xuất tại Việt Nam.
“Vướng mắc chính của Việt Nam hiện nay là cả hai động lực tăng trưởng trên đều đang cạn kiệt và cần phải được thay thế bằng các giải pháp nâng cao năng suất nội tại của mỗi ngành kinh tế. Trong 20 năm tới, dân số trong độ tuổi lao động của Việt Nam sẽ chỉ tăng với tốc độ nhỏ hơn nhiều so với 20 năm qua. Đồng thời, khả năng chuyển dịch cơ cấu kinh tế hiện nay sẽ còn hạn chế hơn trước nhiều”, ông Luis Blancas nhận xét.
Thực tế cho thấy, nâng cao chất lượng vận tải, kho vận thương mại, tức chuỗi hoạt động liên quan đến việc vận chuyển nguyên liệu, thành phẩm từ điểm nguồn đến điểm đích sẽ đóng một vai trò quan trọng cho việc nâng cao năng suất trong giai đoạn tới. Đặc biệt, nâng cao hiệu quả kho vận sẽ tạo điều kiện để các nhà đầu tư quốc tế và nội địa tìm nguồn hàng xuất khẩu với tổng chi phí hàng đến thấp hơn so với các nước khác.
Hãy nhìn sâu vào xuất khẩu...
“Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam có tỷ trọng kho vận đặc biệt cao, do hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam có hàm lượng nhập khẩu cao. Ví dụ, ước tính cho thấy 70 - 80% giá trị hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam là giá trị nguyên liệu, phụ kiện nhập khẩu. Con số tương ứng của mặt hàng giày dép xuất khẩu là 50%. Vì vậy, để thúc đẩy xuất khẩu còn cần chú trọng nâng cao hiệu quả của chuỗi cung ứng nhập khẩu”, ông Luis Blancas nhận định.
Tuy nhiên, thách thức ở đây là chi phí cho các hoạt động kho vận ở Việt Nam tương đối cao so với các nước trong khu vực như Trung Quốc, Malaysia và Thái Lan, chủ yếu do sự thiếu khả năng dự báo trong chuỗi cung ứng. Báo cáo cũng chỉ rõ, thiếu khả năng dự báo trong chuỗi cung ứng làm tăng chi phí kho vận, do các doanh nghiệp phải tích trữ nhiều hàng tồn kho hơn mức cần thiết để quản lý hoạt động hàng ngày.
Nguyên nhân gốc rễ cho sự thiếu ổn định trong chuỗi cung ứng là: những quy định cồng kềnh và không thống nhất của Chính phủ; thiếu tự động hoá trong các quy trình liên quan đến thương mại như thông quan; lập kế hoạch cho các phương thức vận tải rời rạc; sự mất cân bằng cung - cầu trong cung cấp cơ sở hạ tầng…
“Ước tính cho thấy, các công ty vận chuyển hàng qua đường thủy chi khoảng 100 triệu USD hàng năm cho các chi phí lưu kho phụ trội do chậm trễ trong thông quan xuất nhập khẩu, và đến năm 2020 thì con số này sẽ lên đến 180 triệu USD”, ông Luis Blancas nói.
... để tạo động lực tăng trưởng mới
Báo cáo cho rằng, Chính phủ cần hạn chế tối đa các thủ tục giấy tờ trong thông quan hải quan và kỹ thuật cho hàng hoá xuất nhập khẩu. Đảm bảo rằng các quy định của Chính phủ được giải thích, áp dụng và thực thi một cách minh bạch và nhất quán, đặc biệt là trong các hoạt động liên quan đến thương mại quốc tế.
Đồng thời, cần nâng cao liên kết giữa nội địa và các cảng nước sâu ở các cổng giao dịch quốc tế của miền Bắc và miền Nam; xây dựng và thực thi một kế hoạch cân bằng cung - cầu trong các dịch vụ xử lý bốc dỡ hàng hoá ở các cổng giao dịch quốc tế. Tạo thuận lợi cho việc thâm nhập thị trường của các các hãng quốc tế vào thị trường vận tải và các công ty cung cấp dịch vụ kho vận trọn gói của bên thứ ba và khuyến khích phối hợp giữa các hãng vận tải trong nước và quốc tế trong thị trường này.
“Nghiên cứu mà chúng tôi thực hiện trong vòng 2 - 3 năm qua, bao gồm nhiều cuộc thảo luận với các bên liên quan trong ngành kho vận, cho thấy dịch vụ khó lường trong chuỗi cung ứng là lý do chính làm tăng chi phí kho vận tại Việt Nam”, ông Luis Blancas nói. “Chúng tôi hy vọng, các khuyến nghị trong báo cáo sẽ góp phần hình thành các chính sách giúp dịch vụ kho vận cạnh tranh hơn, qua đó tạo thêm việc làm, kích thích tăng trưởng và tăng cường thành tích xuất nhập khẩu cho Việt Nam”.