Vụ án này từng bị trả hồ sơ để điều tra làm rõ việc vợ chồng ông Đặng Nghĩa T. có đồng phạm với bị cáo Nguyễn Thị Hà Thành không.
Cáo trạng thể hiện, từ năm 2016 - 2018, bị cáo Thành hoạt động tự do, bị thua lỗ, nhiều lần phải vay nợ các cá nhân và ngân hàng. Nhờ chiêu vay tiền của người sau trả cho người trước, thời gian đầu, bị cáo tạo được lòng tin đối với người cho vay và cán bộ ngân hàng khi trả nợ đúng hạn.
Do không có hoạt động kinh doanh, chỉ vay tiền của người sau để trả gốc và lãi cao cho người trước nên bị cáo dần mất khả năng thanh toán. Bị cáo Thành nhiều lần thực hiện các hành vi gian dối, nhằm chiếm đoạt tiền của các ngân hàng và cá nhân số tiền hơn 430 tỷ đồng.
Theo cáo trạng, tại NCB, từ tháng 6 - 8/2018, bị cáo vay của ông Đặng Nghĩa T. 50 tỷ đồng, sau đó yêu cầu ông T. gửi tiền tiết kiệm thành nhiều sổ đứng tên vợ chồng ông T. vào ngân hàng rồi đưa sổ tiết kiệm cho Thành giữ.
Sau đó, bị cáo cùng Nguyễn Thanh Tùng (Giám đốc Công ty Jeongho Landmark) dùng tư cách pháp nhân Công ty Jeongho Landmark để lập khống các hợp đồng mua bán hàng hóa, các biên bản đối chiếu công nợ với các công ty khác.
Lợi dụng sự tin tưởng và thiếu trách nhiệm của nhân viên ngân hàng trong hoạt động cấp tín dụng, giải ngân, cả hai ký giả chữ ký của vợ chồng ông T. trên các chứng từ, chiếm đoạt 47,5 tỷ đồng.
Với chiêu tương tự, bị cáo Thành cũng đã vay của ông T. 52 tỷ đồng bằng hình thức yêu cầu ông T. gửi tiền tiết kiệm đứng tên hai vợ chồng ông vào PVcombank, rồi đưa sổ tiết kiệm cho Thành giữ. Sau đó, các bị cáo giả chữ ký, lăn giả dấu vân tay của vợ chồng ông T. chiếm đoạt 49,4 tỷ đồng của PVCombank.
Ngoài ra, bị cáo còn vay của vợ chồng ông T. 20 tỷ đồng với hình thức ông T. gửi tiền vào Viet Á Bank và đưa số tài khoản cho Thành. Bị cáo nhiều lần cầm cố sổ tiết kiệm này để vay Viet Á Bank 19,5 tỷ đồng. Sau đó, các bị cáo giả chữ ký, chiếm đoạt số tiền này.
Theo kết luận điều tra bổ sung, tại cơ quan điều tra, ông T. khai nhận, Nguyễn Thị Hà Thành huy động vốn cho các ngân hàng. Ông T. cho biết, ông gửi tiết kiệm số tiền 122 tỷ đồng vào 3 ngân hàng NCB, PVCombank và Việt Á Bank để hưởng lãi suất theo quy định.
Ông T. và bị cáo Thành thỏa thuận với nhau, ngoài số tiền lãi trên, ông T. còn được Thành trả cho khoản lãi thưởng tương đương với lãi suất ngân hàng. Để tránh việc ông T. rút tiền tiết kiệm trước thời hạn, ảnh hưởng tới chỉ tiêu huy động của bị cáo nên ông T. phải giao các sổ tiết kiệm để bị cáo giữ.
Cơ quan điều tra cho biết, căn cứ vào lời khai của bị cáo Thành và các tài liệu trong hồ sơ có đủ căn cứ khẳng định giao dịch giữa ông T. và bị cáo Thành là giao dịch cho vay tiền để hưởng lãi suất.
“Cáo trạng nêu rõ ông T. cho Thành vay 122 tỷ đồng với hình thức gửi tiền tiết kiệm vào 3 ngân hàng, đưa sổ tiết kiệm cho Thành để chứng minh năng lực tài chính, khi Thành nhận sổ tiết kiệm thì trả luôn lãi ngoài 4,2%/tháng của khoản tiền vay. Việc vay mượn tiền giữa ông T. và Thành ban đầu là thỏa thuận miệng, sau đó có viết giấy cam kết đề ngày 10/11/2017”, kết luận nêu.
Theo kết luận, vợ chồng ông T. khai không biết bị cáo sử dụng các sổ tiết kiệm như thế nào. Vợ chồng ông T. không tham gia vào việc thế chấp các sổ tiết kiệm để bị cáo Thành vay tiền của ngân hàng. Ông T. cũng không nhận được văn bản của ngân hàng thông báo các sổ tiết kiệm bị cầm cố. Hàng tháng, ông T. vẫn được ngân hàng trả lãi vào các tài khoản mà không có việc phong tỏa sổ tiết kiệm và tiền lãi.