Ảnh Shutterstock.

Ảnh Shutterstock.

Vinafor Sài Gòn thắng kiện cơ quan thuế

(ĐTCK) Doanh nghiệp đã đóng tiền thuê đất hàng năm theo quy định, song cơ quan thuế yêu cầu nộp bổ sung. Do không đồng tình, doanh nghiệp đã kiện ra tòa án và tại phiên phúc thẩm, tòa đã xử doanh nghiệp thắng kiện.

Công ty cổ phần Sản xuất và xuất nhập khẩu lâm sản Sài Gòn (Vinafor Sài Gòn) đã nộp tiền thuế đất từ năm 2006 đến năm 2016 là 7,4 tỷ đồng đối với nhà, đất số 64 Trương Định, quận 3, TP.HCM - cũng là trụ sở Công ty, diện tích 1.325,85 m2.

Tuy nhiên, ngày 30/11/2017, Chi cục thuế Quận 3 đã ban hành Thông báo số 11583 yêu cầu Vinafor Sài Gòn nộp tiền thuê đất bổ sung là 3,7 tỷ đồng (tính từ ngày 1/1/2006 đến ngày 31/12/2016).

Lý do là vì căn cứ vào tờ khai tiền thuê đất, thuê mặt nước năm 2009 của Vinafor Sài Gòn, xác định thời điểm thuê đất là ngày 1/1/2006 và không có quyết định hay hợp đồng thuê đất, biên bản làm việc ngày 17/4/2009.

Tính theo đơn giá đất từ năm 2006 đến 2016, tổng số tiền thuê đất là 11,2 tỷ đồng. Công ty đã nộp 7,4 tỷ đồng, nên phải nộp bổ sung 3,7 tỷ đồng.

Về đơn giá đất, Chi cục thuế Quận 3 căn cứ vào Thông báo của Cục thuế TP.HCM gồm Thông báo số 11494 ngày 9/12/2015 và Thông báo số 4141 ngày 10/4/2017.

Theo đó, trước ngày 1/7/2014, đơn giá đất được giao cho Chi cục thuế Quận 3 xác định, Từ 1/7/2014 đến 31/12/2014 là 686.400 đồng/m2/năm, năm 2015 và 2016 là 1,83 triệu đồng/m2/năm.

Vinafor Sài Gòn không đồng ý vì cho rằng, quyết định trên là trái quy định tại Điểm a, Khoản 2 và Khoản 3, Điều 18 - Thông tư 77/2014/TT-BTC ngày 16/6/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số điều của Nghị định số 46/2014/NĐ-CP về thu tiền thuê đất, thuê mặt nước.

Đồng thời, việc ban hành các thông báo cũng trái phẩm quyền khi chưa có ý kiến của Ủy ban nhân dân TP.HCM theo Khoản 1, Điều 11 - Nghị định 46/2014. Bởi vậy, Vinafor Sài Gòn đề nghị tòa hủy các thông báo này.

Cấp sơ thẩm không chấp nhận đơn khởi kiện, nên Vinafor Sài Gòn tiếp tục kháng cáo.

Tại cấp phúc thẩm, Công ty chỉ đề nghị hủy một phần thông báo trên, không yêu cầu giải quyết số tiền thuê đất phải nộp bổ sung từ 1/7/2014 đến 31/12/2016.

Được biết, nguồn gốc đất tại số 64 Trương Định trước năm 1975 thuộc đồn điền của người Pháp.

Năm 1976, Bộ Ngoại thương đã phê chuẩn giao cho Công ty Sản xuất và xuất nhập khẩu lâm thổ sản Sài Gòn xây dựng làm văn phòng làm việc.

Năm 1984, trên thửa đất này còn có Công ty Công nghiệp cao su và Công ty Đặc sản rừng xuất khẩu cùng sử dụng.

Năm 1996, Công ty Bảo quản lâm sản và vật tư kỹ thuật, Công ty Kinh doanh cơ khí lâm nghiệp Sài Gòn cùng Công ty Sản xuất và xuất nhập khẩu lâm thổ sản Sài Gòn đã hợp nhất thành Vinafor Sài Gòn, trụ sở tại số 64 Trương Định.

Công ty TNHH MTV Quản lý kinh doanh nhà Thành phố cho biết, Vinafor Sài Gòn là đơn vị thuê mặt bằng trên theo Quyết định số 10402 ngày 24/6/1978 của Ủy ban nhân dân TP.HCM.

Tại phiên xét xử phúc thẩm vừa qua, Tòa án nhân dân TP.HCM nhận định, Vinafor Sài Gòn đã được Ủy ban nhân dân TP.HCM cho thuê đất trước ngày 1/7/2014.

Đây là thời điểm Nghị định 46/2014 có hiệu lực. Theo quy định tại Điểm a, Khoản 4, Điều 32 - Nghị định 46/2014 và Điểm a, Khoản 3, Điều 18 - Thông tư 77/2014/TT-BTC, doanh nghiệp đã quyết toán số tiền thuê đất hàng năm nên không cần điều chỉnh lại số tiền thuê đất.

Tòa án đã sửa lại bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Vinafor Sài Gòn, hủy một phần Thông báo số 11583 của Chi cục thuế Quận 3.

Vinafor Sài Gòn là công ty con của Tổng công ty Lâm nghiệp Việt Nam (Vinafor), ngành nghề chính là sản xuất bàn ghế gỗ.

Cuối năm 2019, Vinafor Sài Gòn bổ sung thêm ngành nghề mới là buôn bán rượu, thuốc lá, thuốc lào và tư vấn, môi giới, quản lý bất động sản, sàn giao dịch bất động sản.

Theo báo cáo tài chính tóm tắt năm 2018, Vinafor Sài Gòn đạt doanh thu bán hàng 267,5 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế là 4 tỷ đồng. Tỷ lệ chia cổ tức là 10% (tương đương 2,3 tỷ đồng). Nhờ thắng kiện, doanh nghiệp đã bảo toàn được lợi nhuận và chia cổ tức cho cổ đông.

Tính đến 31/12/2018, Vinafor Sài Gòn có tổng tài sản 113,7 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu 33,1 tỷ đồng; nợ phải trả là 80,5 tỷ đồng, trong đó phần lớn là nợ ngắn hạn. Hàng tồn kho ghi nhận là 62,1 tỷ đồng.       

Điểm a, Khoản 4, Điều 32 - Nghị định 46/2014 quy định:

4. Đối với trường hợp người sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho thuê đất trước ngày nghị định này có hiệu lực thi hành, nhưng chưa thực hiện điều chỉnh đơn giá thuê đất theo quy định tại Nghị định 142/2005/NĐ-CP ngày 14/11/2005, Nghị định 121/2010/NĐ-CP ngày 30/12/2010 và nộp tiền thuê đất hàng năm theo thông báo tạm nộp của cơ quan thuế thì thực hiện xử lý như sau:

a) Trường hợp tạm nộp tiền thuê đất hàng năm theo chính sách và giá đất tại thời điểm ban hành thông báo tạm nộp tiền thuê đất thì được thực hiện quyết toán số tiền thuê đất theo số đã tạm nộp.

Tin bài liên quan