So sánh ở mặt bằng chung các ngân hàng đang hoạt động tại Việt Nam, dường như Vietcombank đang sở hữu những điều tốt nhất: quy mô lớn, hiệu quả hoạt động tốt, thương hiệu tốt và đà tăng trưởng duy trì ở mức cao vài năm trở lại đây. Ông có thực sự hài lòng với những kết quả đó?
Lịch sử trên 50 năm đã tạo dựng cho Vietcombank một nền tảng tốt và sự phát triển ổn định trong thời gian dài, bởi vậy ngay cả khi thị trường tài chính khu vực và quốc tế có những biến động hoặc khủng hoảng, Vietcombank vẫn duy trì được hiệu quả hoạt động và tốc độ tăng trưởng cần thiết, tạo đà cho bước phát triển mang tính bứt phá.
Trong khoảng 5 năm trở lại đây, đặc biệt là từ năm 2013 với dấu mốc kỷ niệm sự kiện 50 năm thành lập, ra mắt hệ thống nhận diện thương hiệu mới, Vietcombank đã có sự thay đổi toàn diện cả về hình ảnh và chất lượng hoạt động, ngân hàng đã từng bước thực hiện nhiều dự án chuyển đổi mang tính chất bước ngoặt để tiến dần đến các chuẩn mực quốc tế, hoạt động kinh doanh có nhiều bứt phá, liên tiếp chinh phục những đỉnh cao, tạo ra nhiều khác biệt và dấu ấn riêng để khẳng định vị thế dẫn đầu thị trường của mình.
Tuy nhiên, môi trường cạnh tranh quyết liệt và những biến đổi khôn lường của thị trường không cho phép chúng tôi hài lòng với chính mình. Luôn luôn phải đặt ra những mục tiêu cao hơn để nỗ lực chinh phục.
Ông Nguyễn Mạnh Hùng
Với quan điểm chỉ đạo điều hành nhất quán, phương châm hành động rõ ràng, bên cạnh đó là sự đồng tâm, hiệp lực, đoàn kết nhất trí cao được lan tỏa từ Ban lãnh đạo đến toàn thể cán bộ nhân viên, từ trụ sở chính đến chi nhánh là niềm tin vững chắc cho chúng tôi quyết tâm thực hiện được mục tiêu đã đề ra đến năm 2020 là phát triển trở thành ngân hàng số 1 Việt Nam, một trong 300 tập đoàn tài chính ngân hàng lớn nhất thế giới và được quản trị theo các thông lệ quốc tế tốt nhất.
Như vậy, Vietcombank còn có những đích lớn hơn để phấn đấu? Một tầm nhìn khu vực có trong suy nghĩ của ông và đã có sự chuẩn bị từ các cấp thấp nhất của ngân hàng?
Từ năm 2012, với quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng tại Việt Nam, Ban lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước đã kỳ vọng và mong muốn xây dựng Vietcombank trở thành ngân hàng có quy mô, năng lực đủ sức cạnh tranh với các ngân hàng trong khu vực. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã đặt niềm tin, giao nhiệm vụ cho Vietcombank phát triển trở thành ngân hàng số 1 Việt Nam để dẫn dắt chung cho hệ thống.
Nhiệm vụ này đã được Vietcombank cụ thể hóa trong chương trình hành động của mình hàng năm cũng như để đạt được mục tiêu dài hạn đến năm 2020.
Hoạt động truyền thông nội bộ của Vietcombank đã được phát huy hết sức hiệu quả để mỗi cán bộ, nhân viên trong hệ thống hiểu được mục tiêu chung, biết được công việc cụ thể của mình, thấy được vài trò và trách nhiệm với mục tiêu chung của Ngân hàng từ đó không ngừng sáng tạo, cống hiến để nâng cao năng suất, chất lượng hiệu quả công việc.
Chính điều đó đã mang lại sức mạnh tổng thể, đưa Vietcombank liên tiếp chinh phục các đỉnh cao trong những năm gần đây, trong đó kỷ lục về lợi nhuận là đặc biệt ấn tượng.
Môi trường cạnh tranh quyết liệt và những biến đổi khôn lường của thị trường không cho phép chúng tôi hài lòng với chính mình mà luôn luôn phải đặt ra những mục tiêu cao hơn để nỗ lực chinh phục.
- Ông Nguyễn Mạnh Hùng
Vietcombank hiện là ngân hàng đầu tiên xử lý xong dư nợ xấu tại VAMC trước thời hạn 3 năm và đã hoàn thành giai đoạn tái cơ cấu về xử lý nợ xấu, minh bạch đưa nợ xấu về một sổ và chính thức kiểm soát, quản trị được chất lượng tín dụng một cách thực chất. Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody’s mới đây cũng đã chính thức công bố báo cáo xếp hạng tín nhiệm Vietcombank với đánh giá là ngân hàng có chất lượng tài sản tốt nhất trong các tổ chức tín dụng tại thị trường Việt Nam.
Cổ phiếu Vietcombank cũng luôn duy trì mức giá cao nhất ngành. Chúng tôi cho rằng, niềm tin của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước cũng như thị trường đối với Vietcombank là hoàn toàn có cơ sở và đây là động lực để Vietcombank không ngừng tăng tốc, bứt phá, tiếp tục chinh phục những đỉnh cao mới.
Chúng tôi cũng đang xúc tiến thành lập một số chi nhánh, văn phòng đại diện tại nước ngoài và một số công ty kinh doanh chuyên biệt trong thời gian tới đây.
Đi sâu vào chi tiết, khối doanh nghiệp mà nhà nước giữ cổ phần chi phối, trong đó có các ngân hàng sau quá trình tái cấu trúc vừa qua đã có sự thay đổi đáng kể, tuy nhiên không thể nói là đã hết những hạn chế. Theo ông, những giải pháp nào cần đặt ra trong thời gian tới để có thể đưa các ngân hàng lên một tầm cao mới (như giảm thêm nữa tỷ lệ vốn nhà nước, mở rộng tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài… )?
Quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định, trong đó nổi bật là việc xử lý, kiểm soát nợ xấu, cải thiện và nâng cao chất lượng tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam, nâng cao tính minh bạch, tạo được niềm tin cho thị trường. Sự quan tâm của nhà đầu tư nước ngoài đối với thị trường tài chính Việt Nam ngày càng rõ nét.
Tuy nhiên, vẫn còn đó những hạn chế, cụ thể nhìn từ Vietcombank thì có thể nhận thấy là năng lực tài chính/quy mô vốn còn khá nhỏ so với các ngân hàng trong khu vực; năng lực quản trị điều hành và quản trị rủi ro cần phải được cải thiện hơn nữa để đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế.
Là ngân hàng thương mại lớn mà nhà nước nắm cổ phần chi phối, có vai trò định hướng và dẫn dắt thị trường, Vietcombank từng có một số kiến nghị với Chính phủ để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tái cơ cấu của Vietcombank nói riêng, của các NHTM nói chung nhằm đạt được những mục tiêu chung, quan trọng mà Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước đã xác định, cụ thể:
- Đối với việc hoàn thiện khuôn khổ pháp lý: Từ thực tế triển khai Đề án tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng, Việt Nam cần có thể chế và khuôn khổ pháp lý có tính chất đặc biệt và đột phá, bảo đảm nguyên tắc vận hành theo cơ chế thị trường, phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
Việc hoàn thiện thể chế và khuôn khổ pháp lý phải là ưu tiên số 1 trong quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước và các bộ, ban, ngành liên quan cần tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về các khía cạnh sau: xử lý nợ xấu của các NHTM; mua bán, sáp nhập, hợp nhất các tổ chức tín dụng; sở hữu chéo trong các tổ chức tín dụng; quản trị rủi ro và bảo đảm an toàn hoạt động của các NHTM; cơ chế, chính sách hỗ trợ cho các tổ chức tín dụng thực hiện tái cơ cấu; sự can thiệp của Nhà nước trong xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém.
- Đối với việc nâng cao năng lực tài chính: Chính phủ đã chủ trương giảm tỷ lệ sở hữu vốn của Nhà nước tại các NHTM Nhà nước xuống còn tối thiểu 65% vào năm 2015. Tuy nhiên, Chính phủ cũng cần xác định lộ trình cho phép giảm tỷ lệ này xuống tới 51% để các NHTM chủ động có kế hoạch cũng như phát tín hiệu đối với thị trường. Việc nới giới hạn sở hữu cho các nhà đầu tư nước ngoài cũng cần được cân nhắc với lộ trình phù hợp.
Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng, một mặt sẽ làm tăng tính hấp dẫn của cổ phiếu NHTM đối với các nhà đầu tư nước ngoài, mặt khác sẽ tạo điều kiện thu hút các nguồn lực khác giúp tăng năng lực tài chính của các NHTM trong điều kiện ngân sách nhà nước còn nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cần tạo điều kiện để các NHTM nhà nước tăng vốn điều lệ thông qua phát hành cổ phiếu trả cổ tức, thay vì chi trả bằng tiền mặt như hiện nay, phát hành cổ phiếu cho cán bộ công nhân viên, chào bán riêng lẻ…
Còn nhìn ở góc độ ngành ngân hàng, theo ông thì ngành ngân hàng đã thực sự hết khó khăn chưa? Và trong giai đoạn tới, theo ông, ngành ngân hàng sẽ có bộ mặt ra sao và vị thế các ngân hàng lớn như Vietcombank sẽ như thế nào trong bối cảnh chung đó?
Thị trường tài chính Việt Nam sẽ tiếp tục bước vào giai đoạn cạnh tranh khốc liệt hơn, đặc biệt với sự tham gia ngày càng nhiều ngân hàng nước ngoài.
Nhóm NHTM trong nước dự báo cũng sẽ có sự phân hóa rõ rệt với các ngân hàng trụ cột sẽ dần được hình thành. Yêu cầu nâng cao năng lực tài chính, quản trị điều hành, quản trị rủi ro, công nghệ… sẽ là yếu tố sống còn của các ngân hàng thương mại nội địa trước sức ép tồn tại, phát triển và hội nhập.
Nhận thức rõ những khó khăn, thách thức và cơ hội, Vietcombank đã chủ động xây dựng chiến lược, đề ra mục tiêu và các chương trình hành động của mình.
Trong thời gian qua, cùng với việc cấu trúc lại mô hình tổ chức, triển khai nhiều dự án chuyển đổi có tầm quan trọng đối với sự phát triển dài hạn và bền vững theo chuẩn mực quốc tế như Basel II, CTOM, ALM-FTP-MPA…, Vietcombank đã rà soát chiến lược, xây dựng “Đề án phát triển đến năm 2020”, “Đề án phát triển công nghệ thông tin đến năm 2020” và một số đề án, chương trình hành động khác.
Những bứt phá của Vietcombank trong thời gian qua đã tạo nên thế và lực mới để Vietcombank vững bước tiến vào giai đoạn phát triển mới.
Quay lại với năm 2017, ngoài các kế hoạch mà Vietcombank đã đặt ra, theo ông, Vietcombank sẽ được nhắc tới với một sản phẩm, sự kiện hay một hành động nào nổi bật?
Vietcombank hiện đã hoàn thành giai đoạn tái cơ cấu về xử lý nợ xấu, quản trị được chất lượng tín dụng một cách thực chất. Tỷ lệ quỹ dự phòng rủi ro/nợ xấu được duy trì ở mức cao (xấp xỉ 120%).
Như đã nói, kỷ lục về lợi nhuận năm 2016 của Vietcombank là đặc biệt ấn tượng, đạt 8.523 tỷ đồng, tăng gần 1.700 tỷ đồng (25%) so với năm 2015.
Chúng tôi tin rằng, với việc kiểm soát được chất lượng tín dụng và chặn đứng, thậm chí có thể giảm được mức trích lập dự phòng rủi ro, các cổ đông, nhà đầu tư và thị trường hoàn toàn có quyền kỳ vọng vào một kết quả đặc biệt ấn tượng của Vietcombank cho năm 2017.