Trông người…
Sau 20 năm phát triển, thị trường chứng khoán đã đạt được những dấu mốc phát triển khá ấn tượng. Tuy nhiên, xét trên khía cạnh độ sâu và chuyên nghiệp cao của thị trường như thông lệ và chuẩn mực quốc tế, thì còn không ít khiếm khuyết. Để khắc phục hạn chế này, qua đó thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển theo chiều sâu, Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đang triển khai nhiều giải pháp.
Trong đó, trọng tâm là thúc đẩy mở cửa thị trường chứng khoán phái sinh, khởi tạo hình thành quỹ hưu trí, vừa tăng tính đa dạng cho hàng hóa vừa tăng sức cầu cho thị trường, hoàn thiện các phân mảng của thị trường tài chính bậc cao.
tại thời điểm năm 2014, giá trị tài sản của các quỹ hưu trí tại Nhật Bản đạt 2.862 tỷ USD, tương đương 60% GDP; Malaysia là 205 tỷ USD, tương đương 60,7% GDP; Hàn Quốc là 511 tỷ USD, tương đương 35,3% GDP
Ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở các nước phát triển, giá trị tài sản của quỹ hưu trí có xu hướng tăng cao so với GDP. Trong đó nổi bật là Mỹ, nếu như giá trị tài sản của các quỹ hưu trí năm 2012 là 16.851 tỷ USD, tương đương 108% GDP, thì năm 2014 tăng lên 22.117 tỷ USD, tương đương 127% GDP của nước này. Các quốc gia châu Âu cũng ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng của giá trị tài sản của quỹ hưu trí so với GDP trong những năm gần đây.
Có bề dày hoạt động ít hơn, nhưng nhiều nước ở châu Á, lân cận Việt Nam cũng ghi nhận giá trị tài sản của các quỹ hưu trí so với GDP có sự gia tăng và hiện chiếm tỷ lệ cao. Chẳng hạn, tại thời điểm năm 2014, giá trị tài sản của các quỹ hưu trí tại Nhật Bản đạt 2.862 tỷ USD, tương đương 60% GDP; Malaysia là 205 tỷ USD, tương đương 60,7% GDP; Hàn Quốc là 511 tỷ USD, tương đương 35,3% GDP.
Có một điểm đáng chú ý là, trong tổng giá trị tài sản của các quỹ hưu trí được đầu tư vào các tài sản, lĩnh vực khác nhau thì đầu tư vào cổ phiếu luôn chiếm tỷ trọng cao. Thậm chí, tại nhiều quốc gia, giá trị đầu tư của quỹ hưu trí trong nhiều năm liền đầu tư vào cổ phiếu chiếm tỷ trọng cao nhất.
Chẳng hạn, tại Mỹ, trong năm 2014, giá trị tài sản của các quỹ hưu trí đạt 22.117 tỷ USD thì 44% đầu tư vào cổ phiếu (chiếm tỷ trọng cao nhất), tiếp đến là lĩnh vực khác 29%, đầu tư vào trái phiếu 25% và tiền mặt là 2%...
Cũng tại thời điểm năm 2014, Anh, Úc và Canada là các quốc gia có tổng tài sản của quỹ hưu trí đầu tư vào cổ phiếu chiếm tỷ trọng cao nhất (xem bảng 2).
… ngẫm đến ta
Độ lớn của hệ thống quỹ hưu trí cũng như nguồn vốn mà loại hình quỹ này đầu tư vào thị trường chứng khoán tại các quốc gia trên, là mơ ước đối với một nước đang trên bước đường khởi tạo quỹ hưu trí như Việt Nam.
Định hướng đầu tiên cho sự ra đời của quỹ hưu trí được thể hiện tại Đề án hình thành và phát triển chương trình hưu trí tự nguyện tại Việt Nam, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 144/2014 ngày 20/1/2014. Theo Đề án, việc hình thành và phát triển chương trình hưu trí tự nguyện nhằm xây dựng hệ thống hưu trí đa trụ cột, góp phần đảm bảo an sinh xã hội, đồng thời khuyến khích tiết kiệm, mở rộng cơ sở nhà đầu tư vốn dài hạn trên thị trường vốn theo Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán đến năm 2020.
Để đạt mục tiêu này, Đề án đưa ra những định hướng: đến năm 2020, có khoảng 400 - 500 doanh nghiệp, với khoảng 150.000 người tham gia mua sản phẩm bảo hiểm hưu trí, hoặc đóng góp vào các quỹ hưu trí tự nguyện theo hình thức ủy thác đầu tư. Đến năm 2020, doanh số tích lũy của các quỹ hưu trí tự nguyện để đầu tư trở lại nền kinh tế, trong đó có thị trường vốn, thị trường chứng khoán khoảng 10.000 - 12.000 tỷ đồng.
Để cụ thể hóa hành lang pháp lý cho sự ra đời và hoạt động của quỹ hưu trí, ngày 1/7/2016, Chính phủ đã ban hành Nghị định 88/2016 về chương trình hưu trí bổ sung tự nguyện.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, mô hình tổ chức quỹ hưu trí rất đa dạng. Tuy nhiên, có 2 mô hình chính gồm: quỹ hưu trí tự nguyện được tổ chức dưới mô hình tín thác (người tham quỹ không có quyền sở hữu tài sản của quỹ hưu trí); quỹ hưu trí được tổ chức theo mô hình hợp đồng.
Theo mô hình hợp đồng, quỹ hưu trí được quản lý bởi doanh nghiệp quản lý quỹ hưu trí, trên cơ sở hợp đồng tham gia quỹ hưu trí ký giữa doanh nghiệp quản lý quỹ này với cá nhân, người lao động và người sử dụng lao động.
Mô hình này được áp dụng phổ biến tại nhiều nước như Anh, Mỹ, Ý, Tây Ban Nha... do có nhiều ưu thế hơn so với mô hình tín thác, đó là: đảm bảo tách biệt tài sản của quỹ hưu trí với tài sản của doanh nghiệp quản lý quỹ hưu trí, người sử dụng lao động; tách biệt người sử dụng lao động với việc quản lý quỹ hưu trí; giảm thiểu chi phí, thời gian và rủi ro ảnh hưởng đến uy tín của người sử dụng lao động trong việc vận hành quỹ hưu trí; dễ dàng và thuận tiện trong triển khai, cho phép người lao động tại nhiều doanh nghiệp khác nhau cùng tham gia một quỹ hưu trí, khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp nhỏ và cá nhân tham gia trực tiếp.
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế, đánh giá khả năng thực hiện ở Việt Nam, Bộ Tài chính đã phối hợp với Bộ Lao động Thương binh và Xã hội và các bộ, ngành liên quan trình Chính phủ ban hành Nghị định 88/2016 về chương trình hưu trí bổ sung tự nguyện theo mô hình hợp đồng.
Thị trường vốn Việt Nam (gồm thị trường cổ phiếu và thị trường trái phiếu) đã và đang phát triển với tốc độ nhanh trong những năm gần đây. Tuy tăng trưởng mạnh về quy mô, nhưng tỷ trọng tham gia của các nhà đầu tư tổ chức có vốn dài hạn còn rất khiêm tốn.
Với thị trường trái phiếu, các tổ chức tín dụng nắm giữ khoảng 76% dư nợ trái phiếu chính phủ. Sự tham gia của các quỹ đầu tư, trong đó có các quỹ hưu trí tự nguyện còn rất hạn chế. Với cơ cấu cơ sở nhà đầu tư như hiện nay, thị trường trái phiếu và cổ phiếu còn rất thiếu các nguồn vốn đầu tư dài hạn, đặc biệt là nguồn vốn để đầu tư phát triển hạ tầng cơ sở kinh tế - xã hội. Với thực tế này, vấn đề quan trọng hiện nay là cần thực hiện đồng bộ các giải pháp nhằm phát triển hệ thống cơ sở nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư dài hạn trên thị trường vốn.
Trên thế giới, quỹ hưu trí là tổ chức trung gian tài chính đóng vai trò huy động nguồn vốn dài hạn từ người dân để đầu tư trên thị trường tài chính, góp phần quan trọng vào phát triển thị trường này. Đặc biệt, quỹ hưu trí tự nguyện là một trong những nhà đầu tư lớn nhất trên thị trường trái phiếu tại các quốc gia phát triển.
Do vậy, việc ra đời và vận hành hệ thống quỹ hưu trí tự nguyện tại Việt Nam, bên cạnh vai trò đa dạng hóa hệ thống an sinh xã hội, còn góp phần phát triển hệ thống cơ sở nhà đầu tư dài hạn trên thị trường vốn.
Nguồn vốn từ các quỹ hưu trí được hình thành từ sự đóng góp của người lao động, cá nhân, doanh nghiệp sử dụng lao động, sẽ được đầu tư vào các sản phẩm tài chính trên thị trường vốn, qua đó góp phần phát triển thị trường này, đặc biệt là thị trường trái phiếu chính phủ một cách bền vững.
Diễn biến từ thị trường cho thấy, cả người lao động lẫn doanh nghiệp tham gia còn e dè không chỉ bởi quỹ hưu trí quá mới, mà cơ chế khuyến khích, hỗ trợ cho quỹ hưu trí ra đời và hoạt động trong giai đoạn ban đầu hiện không đáng kể và chưa rõ ràng.
Từ kinh nghiệm phát triển quỹ hưu trí trong giai đoạn ban đầu ở nhiều nước trên thế giới cho thấy, Việt Nam cần sớm có cơ chế khuyến khích người lao động và doanh nghiệp tham gia thông qua các chính sách ưu đãi về phí, thuế đối với khoản đóng góp vào quỹ hưu trí, cũng như khoản tiền mà họ nhận được từ quỹ.
Cùng với đó là các cơ chế bảo vệ đảm bảo tính an toàn cao cho đồng vốn của doanh nghiệp và người lao động góp vào quỹ, vì đây là loại hình quỹ hoạt động lâu dài gắn chặt với người lao động trong suốt độ tuổi lao động cho đến khi về hưu và còn sống.