Đại sứ Phạm Quang Vinh, nguyên Thứ trưởng Bộ Ngoại giao
Chấm dứt đối đầu, chia rẽ mở ra kỷ nguyên mới
Năm nay, Việt Nam tổ chức kỷ niệm tròn 30 năm gia nhập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Ngày 28/7/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của ASEAN, nhưng quá trình hội nhập đã được khởi động từ trước đó, như tham gia Hiệp ước Thân thiện và hợp tác, trở thành quan sát viên từ tháng 7/1992, cũng như tham gia nhiều hoạt động của ASEAN từ năm 1993.
Ngày 28/7/1995 có thể coi là một trong những dấu mốc quan trọng nhất của ASEAN. Bởi đây là thời điểm chấm dứt sự nghi kỵ, chia rẽ, đối đầu, mâu thuẫn sâu sắc giữa Việt Nam với 6 thành viên ASEAN để tạo ra mối quan hệ, hợp tác chặt chẽ. Trước đó, khi thế giới phân chia thành 2 cực do Hoa Kỳ và Liên Xô (cũ) đứng đầu, ít chính khách và nhà phân tích chính trị nào trên thế giới có thể mường tượng đến viễn cảnh Việt Nam - ASEAN, vốn là 2 thế lực đối đầu, chia rẽ, chuyển sang mối quan hệ hợp tác ngày càng gắn bó chặt chẽ, không thể tách rời, cộng sinh với nhau để cùng tồn tại và phát triển.
Sự kiện ngày 28/7/1995 đã mở ra cơ hội, tạo tiền đề để Lào và Myanmar gia nhập ASEAN vào tháng 7/1997 và 2 năm sau, năm 1999, Campuchia chính thức gia nhập “gia đình ASEAN”, hình thành một cộng đồng như ngày nay với trên 675 triệu dân (chiếm gần 8% dân số thế giới), quy mô kinh tế đứng thứ 5 thế giới.
Đối với Việt Nam, quyết định gia nhập ASEAN 30 năm trước không chỉ đóng góp vào việc ổn định an ninh, chính trị chung của khu vực, khép lại một giai đoạn của nghi kỵ, đối đầu và phân rẽ, mà còn là sự khởi đầu để hội nhập với khu vực và thế giới. Có thể nói, nếu không có sự kiện ngày 28/7/1995, thì Việt Nam ngày nay không thể thiết lập được 9 mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện, trong đó có 4 nước là Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (Nga, Mỹ, Trung Quốc và Pháp), 19 đối tác chiến lược và 13 đối tác toàn diện, cùng 17 hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương.
Nhìn lại 3 thập kỷ vừa qua, có thể thấy, Việt Nam ngày càng tham gia đóng góp quan trọng, trở thành nhân tố tích cực và có trách nhiệm với “gia đình ASEAN”. Từ một quốc gia nghèo đói, bị cô lập, cấm vận trong suốt thời kỳ chiến tranh lạnh, yếm thế trên các diễn đàn quốc tế, Việt Nam đã trở thành quốc gia có vị thế quan trọng trên chính trường quốc tế, trở thành nền kinh tế ở tầm trung thế giới; và từ một nước nông nghiệp lạc hậu, đã trở thành một trong những trung tâm sản xuất công nghiệp, cung ứng sản phẩm hàng hóa đến khắp nơi trên thế giới.
Có thể nói, nếu không gia nhập ASEAN để phá băng mối quan hệ lạnh giá, thù địch, đối đầu đã định hình kể từ khi thành lập nước năm 1945 giữa Việt Nam và “thế giới tư bản”, thì không biết đến bao giờ, nước ta mới sẵn sàng bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Từ “học việc” đến chủ động, tích cực
Khi mới “chân ướt, chân ráo” vào cộng đồng khu vực, một mặt, chúng ta và các thành viên cũ phải xây dựng lòng tin, vì 2 bên vốn đối đầu, chia rẽ, có rất nhiều chuyện trong quá khứ, từ chiến tranh Việt Nam đến việc Việt Nam giúp Campuchia giải phóng khỏi chế độ diệt chủng Pol Pot - mà ở thời điểm đó vẫn còn có những cái nhìn thiếu thiện cảm. Mặt khác, thời gian đầu, chúng ta chủ yếu là làm quen, học việc.
Nguyên Phó thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm nhiều lần chia sẻ với anh chị em làm công tác ngoại giao rằng, các thành viên cũ của ASEAN nói, những năm đầu gia nhập, phía Việt Nam chỉ cần học 2 thứ là tiếng Anh để giao tiếp, thảo luận cùng nhau và học đánh golf để chia sẻ với thú vui giải trí - thể thao của đại diện các nước khác.
Hai thứ phải học này, bây giờ, rất nhiều người có thể làm được, nhưng đặt vào bối cảnh những năm 90 của thế kỷ trước, thì không hề đơn giản. Vì khi đó, cán bộ biết tiếng Nga phổ biến hơn và chúng ta vừa bước ra khỏi nền kinh tế tập trung, quan liêu bao cấp, đời sống còn rất nghèo khó, đến tennis còn là môn thể thao “xa xỉ”, nói gì đến môn thể thao “quý tộc” là golf.
Nhưng chúng ta không chỉ muốn giỏi 2 môn này, mà phải giỏi nhiều thứ khác, phải có thực lực mới khẳng định được vị thế. Tất cả mọi việc đặt ra đều quá khó ở thời điểm đó. Nhưng chúng ta đã đặt ra quyết tâm phải hội nhập thành công để mở ra cơ hội mới, kỷ nguyên mới cho dân tộc. Bởi đây là cơ hội để chúng ta không phải “nhìn mặt ai”, hỏi ý kiến ai trong mối quan hệ đa phương trước khi đưa ra chính kiến của mình. Gia nhập ASEAN, chúng ta mới thực sự tự chủ, tự lập, nên phải học từ cách thức làm việc, tổ chức, chủ trì các cuộc họp, đến việc đưa ra các sáng kiến và thuyết phục các thành viên khác trong tổ chức đồng thuận nhằm mục tiêu thúc đẩy sự hợp tác, đoàn kết, bỏ qua bất đồng, gác lại khác biệt, vì mục tiêu chung là hòa bình, hợp tác, phát triển trong khu vực.
Nếu như năm 1975, chúng ta bước vào kỷ nguyên hòa bình, độc lập, thống nhất Tổ quốc, thì 20 năm sau, năm 1995, chúng ta bước vào kỷ nguyên hội nhập với cộng đồng thế giới để phát triển kinh tế và bây giờ bước vào kỷ nguyên vươn mình.
Trong kỷ nguyên thứ nhất, Việt Nam có sự hỗ trợ, giúp đỡ, hậu thuẫn không hề nhỏ từ Liên Xô (cũ) và các nước xã hội chủ nghĩa. Khi đó, chúng ta ở tâm thế của “bên thắng cuộc” trong cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc - thống nhất Tổ quốc, nên bước vào kỷ nguyên xây dựng đất nước đã nhận được nhiều sự chia sẻ của các nước trong “Thế giới thứ ba”.
Trong kỷ nguyên vươn mình, chúng ta đã có thực lực về mọi mặt, có tiềm lực phát triển, có quan hệ đối ngoại từ song phương, đến đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các quốc gia, tổ chức trên thế giới.
Còn trong kỷ nguyên hội nhập, chúng ta gặp muôn vàn khó khăn, khi chỗ dựa vững chắc là hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa tan rã, nền kinh tế vừa mở cửa, mới vượt qua được cảnh “đói cơm, rách áo”, Hoa Kỳ cũng chỉ vừa dỡ bỏ cấm vận (ngày 3/2/1994). Thời điểm đó, nhiều nước trên thế giới vẫn còn nghi kỵ Việt Nam. Vì thế, tham gia ASEAN, Việt Nam xác định phải sớm qua thời gian “thử việc”, “tập sự”, từng bước vững chắc trở thành thành viên chủ động, tích cực và có những đóng góp, vai trò quan trọng thúc đẩy ASEAN phát triển mạnh hơn, nhanh hơn với đầy đủ các nước trong khu vực Đông Nam Á. Nhìn lại giai đoạn này, dù khiêm tốn, cũng phải nói, chúng ta đã thành công ngoài mong đợi.
Việt Nam ngày càng khẳng định vị thế trong khu vực và trên trường quốc tế. Ảnh: Nguyễn Đông |
ASEAN Summit 6 - đoàn kết, hợp tác, hòa bình, ổn định, phát triển
Chỉ sau 3 năm gia nhập, Việt Nam đã đăng cai tổ chức Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 6 (ASEAN Summit 6) vào tháng 12/1998 với chủ đề: “Ðoàn kết, hợp tác vì một ASEAN hòa bình, ổn định và phát triển đồng đều”. Đây là hội nghị rất thành công, được cộng đồng quốc tế đánh giá rất cao khi các nhà lãnh đạo đồng thuận, nhất trí thông qua Tuyên bố Hà Nội và Chương trình Hành động Hà Nội, góp phần tăng cường đoàn kết, đẩy mạnh hợp tác, khôi phục hình ảnh ASEAN và định hướng phát triển; Tuyên bố về các biện pháp mạnh mẽ để cải thiện môi trường đầu tư ASEAN, đồng thời thông qua 4 hiệp định hợp tác trên các lĩnh vực cụ thể và quyết định kết nạp Campuchia làm thành viên thứ 10.
Chương trình Hành động Hà Nội là định hướng quan trọng để thực hiện Tầm nhìn ASEAN; đẩy mạnh liên kết ASEAN, nhất là trong lĩnh vực kinh tế; tập trung trao đổi vấn đề nhằm thu hẹp khoảng cách phát triển, giúp các thành viên mới (Việt Nam, Lào, Myanmar và Campuchia).
Trước đó, vào năm 1997, Việt Nam đã tổ chức thành công Hội nghị không chính thức lần thứ hai của ASEAN tại Hà Nội. Tại đây, các lãnh đạo đã thông qua Kế hoạch Hành động Hà Nội và xác định Tầm nhìn ASEAN 2020 với nguyên tắc sống trong hòa bình, ổn định và thịnh vượng, liên kết với nhau trong mối quan hệ đối tác, phát triển năng động và đùm bọc lẫn nhau. Kế hoạch Hành động Hà Nội đặt nền móng cho việc tăng cường hợp tác vĩ mô và tài chính; tăng cường hội nhập kinh tế lớn hơn bằng việc đẩy nhanh hơn tự do hóa thương mại, dịch vụ; hài hoà hải quan; thực hiện Hiệp định khung về đầu tư ASEAN; bảo đảm an ninh lương thực; thúc đẩy xây dựng năng lực và phát triển nguồn nhân lực; tăng cường hợp tác và cách tiếp cận chung trong các vấn đề quốc tế; thúc đẩy phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, tăng cường hoà bình và an ninh trong khu vực…
Có thể nói, kể từ khi ASEAN được thành lập (ngày 8/8/1967), chưa có nước nào thành công như Việt Nam khi giữ vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2010. Chỉ riêng về vấn đề chính trị - an ninh, chúng ta đã chủ động phối hợp với các thành viên triển khai Kế hoạch tổng thể về xây dựng Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (ASPC), nhất là trong 14 lĩnh vực ưu tiên được đẩy mạnh, tăng cường đối thoại và hợp tác về các vấn đề chính trị - an ninh, nâng cao hiểu biết và tin cậy giữa các quốc gia, vì lợi ích chung là hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển ở khu vực. Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF) tiếp tục hoạt động mạnh mẽ và được bổ sung với việc lập một số cơ chế mới như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng ASEAN mở rộng với các đối tác quan trọng (ADMM+), Hội nghị Những người đứng đầu các cơ quan an ninh ASEAN (MACOSA) và Diễn đàn Biển ASEAN (AMF). Các công cụ bảo đảm hòa bình và an ninh khu vực tiếp tục được củng cố và phát huy tác dụng, nhất là Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác (TAC), Hiệp ước về Khu vực Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân (SEANWFZ).
Đặc biệt, mặc dù vẫn còn những quan điểm chưa thật sự đồng thuận lợi ích trên biển Đông, nhưng các bên vẫn ra được Tuyên bố về Cách ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông (DOC) đặt nền móng để xây dựng Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông (COC) làm nền tảng cho sự ổn định trong khu vực và thúc đẩy sự hiểu biết giữa các quốc gia tranh chấp.
Dấu ấn Việt Nam
Ngày 28/7/1995 có thể coi là một trong những dấu mốc quan trọng nhất của ASEAN. Bởi đây là thời điểm chấm dứt sự nghi kỵ, chia rẽ, đối đầu, mâu thuẫn sâu sắc giữa Việt Nam với 6 thành viên ASEAN để tạo ra mối quan hệ, hợp tác chặt chẽ.
Năm 2010, Việt Nam lần đầu tiên giữ vai trò Chủ tịch ASEAN đã làm được rất nhiều việc. Trong đó có việc tổ chức thành công ASEAN Summit 6 và các hội nghị cấp cao liên quan, in đậm dấu ấn và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, là thắng lợi của đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta, được bạn bè quốc tế đánh giá rất cao.
Thời gian này, tôi làm Trợ lý Bộ trưởng Bộ Ngoại giao, Trưởng SOM ASEAN Vietnam (cuộc họp các quan chức cao cấp), nên được tham gia nhiều hoạt động của ASEAN. Với vai trò là Chủ tịch ASEAN, ngay từ đầu năm, chúng ta đã xác định rõ chủ đề và ưu tiên xuyên suốt của năm 2010 là “Hướng tới Cộng đồng ASEAN: Từ tầm nhìn đến hành động”.
Theo đó, các lĩnh vực ưu tiên chung nhất của ASEAN cũng như trong hợp tác của nội khối với các đối tác là hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, đưa Hiến chương ASEAN vào cuộc sống; tăng cường và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ của ASEAN với các đối tác; đẩy mạnh hợp tác để ứng phó hiệu quả với các thách thức; củng cố và tăng cường xây dựng môi trường hòa bình và ổn định; phát huy vai trò trung tâm của ASEAN ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương và trong xây dựng các cấu trúc khu vực...
Việt Nam đã đề ra phương châm khi đảm nhận chức Chủ tịch ASEAN là “Tích cực, chủ động, trách nhiệm”. Chúng ta góp phần tăng cường đoàn kết, liên kết và hợp tác khu vực, mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ của nội khối với các đối tác, không ngừng nâng cao vai trò, vị thế quốc tế của Hiệp hội, hiện thực hóa mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN.
Với vai trò Chủ tịch ASEAN, Việt Nam đã đưa ra nhiều đề xuất, sáng kiến về những vấn đề thiết thân nhất của khu vực được các nước thành viên ủng hộ và cùng nhau ra Tuyên bố về phục hồi và phát triển bền vững, Tuyên bố về ứng phó với thách thức do biến đổi khí hậu; Tuyên bố về phát triển nguồn nhân lực và các kỹ năng cho phục hồi kinh tế và tăng trưởng bền vững… Tuyên bố về tăng cường phúc lợi và phát triển của phụ nữ và trẻ em ASEAN được đưa ra khi Việt Nam giữ vai trò Chủ tịch ASEAN là điều mà đến nay, các tổ chức đa phương khác trên thế giới cũng không dễ làm được.
Một dấu ấn nữa đối với ASEAN khi Việt Nam giữ vai trò Chủ tịch năm 2010 là quyết định mở rộng Hội nghị Cấp cao Đông Á lần thứ 5 (EAS-5) tại Hà Nội vào tháng 10/2010. EAS là một diễn đàn đối thoại về các vấn đề chiến lược, kinh tế và chính trị, bao gồm 10 nước ASEAN cùng Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia, New Zealand và Ấn Độ. EAS-5 là hội nghị đặc biệt, bởi ngoài 16 thành viên, còn có sự hiện diện của Liên bang Nga và Mỹ do ngoại trưởng Sergey Lavrov và Hillary Clinton dẫn đầu với tư cách là khách mời đặc biệt của nước chủ nhà - Việt Nam, mở đường để kết nạp Nga và Mỹ vào “ngôi nhà chung EAS”.
Như chúng ta đã biết, mối quan hệ Nga - Mỹ - Trung đã khá “căng” trong nhiều năm trước, chứ không phải đến bây giờ mới như vậy. Vì thế, để mời được cả 2 cường quốc này cùng tham dự EAS-5 là việc cực khó, ngay cả việc thuyết phục các thành viên EAS, nhất là Trung Quốc đồng thuận cũng là việc vô cùng khó khăn. Sự hiện diện của ngoại trưởng Sergey Lavrov và Hillary Clinton tại EAS-5 thu hút sự quan tâm đặc biệt của giới chính sách, chuyên gia phân tích chính trị và truyền thông quốc tế.
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến”
Sức mạnh của ASEAN mà không tổ chức nào trên thế giới có được là sự đoàn kết.
Lần thứ 2 Việt Nam làm Chủ tịch ASEAN vào năm 2020. Với những kinh nghiệm từ khóa Chủ tịch trước, lần này, chúng ta chuẩn bị thực hiện trách nhiệm Chủ tịch ASEAN đầy khí thế và hưng phấn, với rất nhiều nội dung, kế hoạch, chương trình nghị sự đã được lập trình. Tuy nhiên, thách thức không thể lường trước là đại dịch Covid-19 bùng phát, khiến mọi hoạt động trên thế giới gần như ngưng trệ, mọi kế hoạch đã được “set up” từ trước bị đảo lộn.
Trong hoàn cảnh khó khăn chưa từng có tiền lệ, chúng ta đã kịp thời chuyển trạng thái hoạt động từ thực hiện các cuộc họp, thảo luận trực tiếp truyền thống sang trực tuyến, nên vẫn điều phối, duy trì được trạng thái hoạt động của ASEAN bình thường.
Với tinh thần “Gắn kết và chủ động thích ứng”, dưới sự điều phối của Chủ tịch ASEAN, các nước trong khu vực đã mạnh mẽ vượt qua, thực hiện thành công các mục tiêu ưu tiên hợp tác đã đề ra cho năm 2020, khiến ASEAN ngày càng trở nên đoàn kết, gắn kết, với khả năng tự cường và thích ứng cao hơn với đại dịch. Ngay cả trong “đại dịch thế kỷ”, dưới sự điều phối của Chủ tịch ASEAN, hoạt động xây dựng Cộng đồng ASEAN tiếp tục được đẩy mạnh và đạt nhiều tiến triển. Điển hình là việc ký kết thành công Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP), hợp tác an sinh, xã hội tiếp tục được bảo đảm, quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu, thực chất và hiệu quả hơn.
Việc chủ trì tổ chức suôn sẻ hàng loạt hội nghị quan trọng theo hình thức trực tuyến đã cho thấy thành công trong quá trình chuyển đổi số ở Việt Nam, là minh chứng cho năng lực và khả năng sẵn sàng của Việt Nam trong thời đại kỷ nguyên số. Sau 25 năm tham gia ASEAN, Việt Nam đã trở thành một trong những thành viên nòng cốt, dẫn dắt, xây dựng và xác định các luật chơi trong nội khối và khu vực, trở thành một chỗ dựa vững chắc và tin cậy của các thành viên.
Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh Chủ tịch ASEAN năm 2020 theo cách chủ động nhất, trách nhiệm nhất, sáng tạo nhất, bản lĩnh nhất và hiệu quả nhất. Việc hoàn thành sứ mệnh Chủ tịch ASEAN năm 2020 cho thấy, chúng ta đã và đang phát huy bản sắc ngoại giao Việt Nam và “trường phái ngoại giao” Hồ Chí Minh, luôn kiên trì, kiên định mục tiêu, nguyên tắc, song hết sức linh hoạt về sách lược - “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, luôn tìm cách biến “nguy” thành “cơ” thông qua cách tiếp cận chủ động, bản lĩnh và cách làm sáng tạo, cùng với sự chân thành, chính trực, luôn vì lợi ích và trách nhiệm chung.
Đoàn kết là sức mạnh nội khối
Đến thời điểm này, các chính khách, nhà phân tích chính trị và giới truyền thông quốc tế phải thừa nhận rằng, ASEAN là tổ chức khu vực duy nhất trên thế giới đóng vai trò trung tâm của khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương. Câu hỏi được các chính khách, nhà phân tích chính trị và báo giới quốc tế đặt ra là tại sao ASEAN lại làm được, trong khi có những tổ chức lớn hơn, giàu có hơn, lại không làm được?
Câu trả lời là, ASEAN hoạt động trên nguyên tắc vì hoà bình, ổn định, hợp tác, phát triển dựa trên luật pháp quốc tế. Sự tồn tại của ASEAN không ảnh hưởng đến lợi ích của bất cứ quốc gia, tổ chức, khu vực nào trên thế giới, mà ngược lại, góp phần không nhỏ cho hoà bình, hợp tác quốc tế.
Kể từ khi Việt Nam gia nhập, ASEAN đã kết nối được với tất cả các nước lớn. Cho đến nay, không tổ chức khu vực nào trên thế giới có thể kết nối được với cả Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ấn Độ, EU cùng ngồi trong một diễn đàn như ARF, ADMM+ để cùng nhau thảo luận, đồng nhất quan điểm, đưa ra tuyên bố về rất nhiều vấn đề, từ liên kết kinh tế, hợp tác phát triển, xử lý những vấn đề nổi cộm của khu vực và thế giới đến các vấn đề liên quan an ninh, hợp tác để đối phó với biến đổi khí hậu, dịch bệnh, nước biển dâng…
Sức mạnh của ASEAN mà không tổ chức nào trên thế giới có được là sự đoàn kết. Cho dù có thể có vấn đề nào đó mà 2 quốc gia chưa đồng quan điểm, nhưng khi được đưa ra diễn đàn quốc tế, hay trở thành vấn đề quyết định quan hệ của khu vực với đối tác, thì cả gia đình ASEAN “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, “mười người một ý”.
Trong bối cảnh quan hệ kinh tế, chính trị quốc tế diễn biến phức tạp, khó lường như hiện nay, với sự đoàn kết “mười người như một”, ASEAN không phải bị buộc mình chọn bên, dứt khoát không theo bên này để chống lại bên thứ ba; ASEAN phải chơi được, chơi sòng phẳng với tất cả các nước lớn, dù họ đang cạnh tranh nhau gay gắt trên mọi mặt trận, từ kinh tế, thương mại, đến công nghệ…
Một lần nữa, tôi muốn nhấn mạnh rằng, đoàn kết là sức mạnh của ASEAN. Trong bối cảnh thế giới ngày càng cạnh tranh, phân cực nảy sinh ngày càng nhiều vấn đề phức tạp, đặc biệt là cạnh tranh giữa các nước lớn đều là đối tác quan trọng của ASEAN, thì đoàn kết nội khối lại càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Đây là thách thức rất lớn, buộc từng thành viên ASEAN phải vượt qua. Bất cứ quốc gia nào, vì lợi ích riêng của mình mà “chọn bên”, sẽ tạo ra nhiều rủi ro về hợp tác kinh tế lẫn an ninh, chính trị cho cả khu vực. Chỉ có đoàn kết, ASEAN mới giữ vững được lập trường, nguyên tắc đã đặt ra là hoà bình, ổn định, hợp tác dựa trên luật pháp quốc tế.
Sự thành công của ngoại giao Việt Nam nói chung, quan hệ với ASEAN nói riêng là bài học, là kinh nghiệm cho nhiều nước trên thế giới. Có được kết quả như ngày hôm nay chính là nhờ chúng ta đã thực hiện “trường phái ngoại giao Hồ Chí Minh”, đó là ưu tiên mối quan hệ với các nước lớn cũng như các nước láng giềng.