Viện Kiểm sát: Quy kết có căn cứ, đúng luật, đúng người, đúng tội

Viện Kiểm sát: Quy kết có căn cứ, đúng luật, đúng người, đúng tội

(ĐTCK) Sáng nay 10/12, đại diện Viện kiểm sát đã tranh luận lại với quan điểm của các luật sư và bị cáo.

Theo đại diện Viện Kiểm sát, về hành vi Kinh doanh trái phép, hợp đồng 017 giữa Thiên Nam và Ngân hàng ACB về giao dịch vàng trạng thái bị quy kết là kinh doanh trái phép.

Bị cáo và các luật sư cho rằng kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài của Công ty Thiên Nam là mua bán hàng hóa đã có trong giấy kinh doanh, không vi phạm pháp luật.

Viện kiểm sát cho rằng phải lấy nội dung hợp đồng 017 ngày 10/12/2009 để xem hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài của Thiên Nam có phải đăng ký kinh doanh một mã ngành khác hay đã có trong giấy phép đăng ký kinh doanh.

Viện Kiểm sát khẳng định Công ty Thiên Nam kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài. Khi thực hiện hợp đồng, Công ty Thiên Nam đã thực hiện mua bán vàng trên tài khoản nước ngoài.

Hợp đồng có nội dung thể hiện mua bán trạng thái vàng có thể chuyển đổi thành vàng nguyên liệu hoặc vàng vật chất, do đó không thể là sản phẩm phái sinh hay kinh doanh vàng. Mua bán vàng hay kinh doanh trạng thái vàng có thể chuyển đổi thành vàng vật chất.

Từ nội dung trên, hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài của công ty Thiên Nam chịu sự điều chỉnh của Quyết định 03/2006 và hoạt động kinh doanh vàng được xếp vào mã 46624.

Theo Viện kiểm sát, Công ty Thiên Nam đã kinh doanh trạng thái vàng trên tài khoản nước ngoài không có giấy phép. Nguyễn Đức Kiên là Chủ tịch HĐQT Thiên Nam, thực hiện giao dịch qua hệ thống điện thoại ghi âm của ACB. Không có sự tham gia của bị cáo, giao dịch đã không thực hiện được. Bị cáo phải chịu trách nhiệm về hành vi kinh doanh trái phép là có cơ sở.

Tại kháng cáo, bị cáo Kiên nói thực tiễn bị cáo biết có một số doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài nhưng không bị xem xét xử lý. Vấn đề bị cáo đưa ra không thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm nên Viện kiểm sát không xem xét.

Ở hành vi Trốn thuế, có 3 hợp đồng kỳ cùng ngày 25/12/2008 gồm hợp đồng số 01 do bà Đặng Ngọc Lan (vợ bị cáo Kiên) ký với Ngân hàng ACB, hợp đồng số 010109 giữa bà Nguyễn Thúy Hương (em gái bị cáo Kiên) và Công ty B&B có nội dung bên ủy thác đầu tư tài chính; Phụ lục hợp đồng ký giữa 3 bên gồm bà Nguyễn Thúy Hương, bên nhận ủy quyền Nguyễn Đức Kiên và Công ty B&B.

Các luật sư và bị cáo đều thừa nhận có hợp đồng, các nội dung đề nghị Viện kiểm sát tranh tụng gồm 3 vấn đề gồm 3 hợp đồng và phụ lục nói trên có phải ký trong cùng một ngày 25/12/2008, có bị ký lùi thời gian, có phù hợp quy định pháp luật không?

Bị cáo Kiên khẳng định không có ý định trốn thuế, người phải nộp thuế là bà Hương và bà Hương được hưởng chính sách miễn thuế theo Nghị quyết 32 của Quốc hội và Thông tư 160 của Bộ Tài chính.

Các luật sư có ý kiến đề nghị xem xét lại tính hợp pháp của 2 văn bản 342 và 105 và kết luận giám định của Bộ tài chính khi giám định thuế bởi không đủ nguồn, viện dẫn thiếu căn cứ pháp luật.

Về các nội dung này, Viện kiểm sát tranh luận với bị cáo như sau:

Phụ lục hợp đồng ký giữa 3 bên về năm có vi phạm, có tẩy xóa nhưng chưa có căn cứ để khẳng định đã bị ký lùi. Nhưng thông qua hợp đồng cho thấy có vi phạm điều cấm pháp luật như sau: tại phụ lục hơp đồng, bị cáo Kiên là người đại diện theo pháp luật của Công ty B&B nhưng lại nhận ủy quyền của bà Hương, để thực hiện hợp đồng ủy thác của Hương cho Công ty B&B là vi phạm Điều 144 khoản 5 Bộ luật dân sự về phạm vi đại diện ủy quyền. Người đại diện không được xác lập thực hiện các giao dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ 3 mà mình cũng là đại diện. Như vậy xác lập đại diện ủy quyền của bà Hương cho Nguyễn Đức Kiên là vi phạm pháp luật.

Mặt khác, quá trình ủy thác tại Công ty B&B, bà Hương khai: là thành viên HĐQT, chỉ phụ trách công tác văn thư, quản lý con dấu và văn phòng. Công ty chỉ có 4 người. Kiên là người hoạch định, quyết định thực hiện hoạt động kinh doanh.

“Khi thực hiện hợp đồng, tôi không phải đặt cọc và anh Kiên đặt lệnh trực tiếp. Hương chỉ biết ký biên bản thỏa thuận phân chia kết quả ủy thác đầu tư” – trích bút lục vụ án.

Bà Đặng Ngọc Lan khai: Không phải là người đại diện pháp luật của Công ty B&B, do anh Kiên hay đi công tác nên ký giấy ủy quyền cho tôi thực hiện một số nhiệm vụ. Về việc ủy thác kinh doanh vàng tôi không hiểu biết nhiều mà chỉ ký chứng từ. Khi thấy lỗ nhiều tôi hỏi anh Kiên bảo việc kinh doanh để anh và Hương giải quyết.

Tại phiên tòa phúc thẩm, bà Hương và bà Lan tiếp tục xác nhận lời khai trên.

Tại cơ quan điều tra bị cáo Kiên đã khai: Các giấy tờ tài liệu vợ tôi và Hương ký theo yêu cầu của tôi. Kế toán soạn thảo theo ý tôi rồi đưa tôi xem. Như vậy, Kiên đã chỉ đạo ký hợp đồng ủy quyền và sử dụng giấy tờ không hợp pháp để xác định số thuế phải nộp là vi phạm pháp luật. Hành vi của bị cáo phạm tội đã phạm vào tội Trốn thuế như án sơ thẩm quy kết Viện kiểm sát thấy là có căn cứ đúng pháp luật, đúng người, đúng tội.

Việc quy kết bị cáo phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, theo Viện kiểm sát, ngày 21/5/2012, Trần Ngọc Thanh đại diện cho Công ty ACBI ký hợp đồng về việc ACBI bán 20 triệu cổ phần Thép hòa Phát (tương ứng 264 tỷ đồng), cho Công ty TNHH MTV Thép Hòa Phát.

Theo hợp đồng, ACBI cam kết số cổ phần và những quyền, lợi ích liên quan được chuyển nhượng cho Công ty TNHH MTV Thép Hòa Phát thuộc sở hữu hợp pháp của ACBI, chưa chuyển nhượng và không có tranh chấp hoặc bất kỳ nghĩa vụ bảo đảm với bất kỳ tổ chức hoặc cá nhân nào.

Trước đó, ngày 11/5/2010, Nguyễn Đức Kiên chỉ đạo Trần Ngọc Thanh (đại diện Công ty ACBI) ký hợp đồng thế chấp hơn 24 triệu cổ phần Thép Hòa Phát cho ACB để bảo đảm cho khoản phát hành trái phiếu 800 tỷ đồng. Do đó số cổ phần này được Công ty chứng khoán ACBS phong tỏa theo đề nghị pong tỏa kiêm ủy quyền chuyển nhượng cổ phiếu ngày 11/5/2010 và hợp đồng quản lý tài sản bảo đảm thanh toán trái phiếu giữa ACBI và ACBS.

Như vậy, tại thời điểm ký hợp đồng, bị cáo Kiên biết 20 triệu cổ phần đang bị thế chấp tại ACB và bị phong tỏa. Trước đó, bị cáo cũng đã yêu cầu kế toán và giám đốc công ty ACBI làm văn bản xin đề nghị giải tỏa nhưng không được ACB chấp nhận.

Đến ngày 27/6/2012,  Công ty TNHH MTV Thép Hòa Phát đã trả đủ số tiền 264 tỷ đồng vào tài khoản của ACBI theo hợp đồng đã ký. Nhận đủ và chi hết số tiền 264 tỷ đồng nhưng bị cáo vẫn không thực hiện việc giải chấp.

Ngày 5/9/2012, Công ty TNHH MTV Thép Hòa Phát có đơn đề nghị cơ quan cảnh sát điều tra Bộ công an điều tra làm rõ số cổ phần đã nêu trên và thu hồi số tiền 264 tỷ đồng cho TNHH MTV Thép Hòa Phát.

Sau đó, cơ quan cảnh sát điều tra có Công văn số 497 yêu cầu ACBI nộp lại số tiền 264 tỷ đồng, nhưng trong tài khoản của công ty chỉ có 53 tỷ. Trong quá trình điều tra, ACBI không thực hiện được yêu cầu của cơ quan điều tra, ngoài số tiền 53 tỷ đồng trên.

Ngày 12/9/2012,phía ACB đã họp bàn và kết luận không đồng ý giải chấp số cổ phần của ACBI đồng thời khẳng định, 29 triệu cổ phần Thép Hòa Phát vẫn đang thế chấp tại ACB. ACB chưa có bất kỳ văn bản nào đồng ý giải chấp số cổ phần này.

Đến 17/9/2012, cơ quan cảnh sát điều tra Bộ Công an mới ra quyết định về việc khởi tố bổ sung tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Như vậy, cơ quan điều tra Bộ công an  phát hiện công ty ACBI có vi phạm trong việc bán cổ phần cho Công ty TNHH MTV Thép Hòa Phát và yêu cầu ACBI nộp lại số tiền 264 tỷ đồng nhưng  ACBI không thực hiện nên mới ra quyết định khởi tố.

Về vấn đề này, Luật sư của bị cáo và bị cáo nêu, việc khởi tố vụ án không xuất phát từ Hòa Phát mà là mong muốn của cơ quan điều tra. Về việc này, theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, căn cứ để khởi tố vụ án lừa đảo, khi cơ quan điều tra phát hiện ra, thấy có căn cứ là có quyền khởi tố vụ án, thấy người phạm tội là có quyền khởi tố bị can.