VAMC chưa được bán đất để thu hồi 51 tỷ đồng
Mới đây, Tòa án Nhân dân Thành phố Hà Nội đã tuyên hủy bản án sơ thẩm vụ kiện đòi nợ giữa VAMC - Công ty TNHH Xây dựng thương mại Tiến Đạt và yêu cầu giải quyết lại theo thủ tục chung. Như vậy, quá trình đòi nợ của VAMC sẽ còn kéo dài.
Được biết, năm 2010, Sacombank Chi nhánh Hà Nội cấp hạn mức tín dụng 40 tỷ đồng cho Công ty Tiến Đạt để bổ sung vốn lưu động, lãi suất theo từng khế ước nhận nợ và được điều chỉnh 3 tháng một lần. Thực hiện hợp đồng này, Công ty Tiến Đạt đã ký 14 giấy nhận nợ với Sacombank, tổng giá trị các khoản nợ là hơn 400.000 USD và hơn 30 tỷ đồng. Tài sản bảo đảm cho các khoản vay này bao gồm một số nhà đất của vợ chồng ông Nguyễn Văn Thành, Giám đốc Công ty Tiến Đạt; nhà đất của ông Phạm Tuấn Anh, nhà đất của ông Nguyễn Xuân Kỳ, ông Nguyễn Văn Lũy... Đến hạn, Công ty Tiến Đạt không trả được nợ.
Đến năm 2013, VAMC mua lại khoản nợ này từ Sacombank và khởi kiện đề nghị tòa án buộc Công ty Tiến Đạt phải trả nợ. Ở cấp xét xử sơ thẩm, đại diện Công ty Tiến Đạt trình bày trước tòa rằng, do Công ty gặp nhiều khó khăn nên không có nguồn tiền thanh toán khoản vay và đề nghị, trong thời gian Công ty huy động vốn để trả nợ, phía ngân hàng hãy xử lý dần tài sản thế chấp.
Bản án sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của VAMC, buộc Công ty Tiến Đạt phải thanh toán 51 tỷ đồng nợ gốc và lãi, trường hợp Công ty Tiến Đạt không trả được nợ, VAMC được quyền xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.
Rắc rối tài sản bảo đảm
Sau phiên tòa sơ thẩm, Viện Kiểm sát Nhân dân Thành phố Hà Nội đã có quyết định kháng nghị, cho rằng cấp sơ thẩm đã có vi phạm tố tụng, xác định thiếu người tham gia tố tụng. Đơn cử như trường hợp nhà đất thế chấp của vợ chồng ông Nguyễn Văn Thành tại quận Thanh Xuân (Hà Nội), tài liệu thể hiện hiện trạng trên đất có nhà 3 tầng 1 tum và cho thuê tầng 1, nhưng không làm rõ có những ai đang sinh sống để đưa vào tham gia tố tụng.
Với trường hợp nhà đất của vợ chồng ông Phạm Tuấn Anh, Viện Kiểm sát Nhân dân TP. Hà Nội cho rằng, nghĩa vụ bảo đảm tối đa là 5,8 tỷ đồng, trên đất có nhà cấp 4, nhưng tòa án cấp sơ thẩm không làm rõ những người đang sinh sống và xác định giá trị bảo đảm không vượt quá 10 tỷ đồng, như vậy là vượt quá phạm vi thỏa thuận của hợp đồng thế chấp. Không chỉ thế, Văn phòng đăng ký nhà đất quận Hoàng Mai (Hà Nội) có văn bản xác nhận thửa đất trên có một phần nằm trong quy hoạch xây dựng nhà cao tầng tỷ lệ 1/500 và đã có quyết định thu hồi đất, nhưng tòa án không xác minh việc thu hồi đất cũng có phương án bồi thường hay chưa mà đã chấp nhận hợp đồng thế chấp là không phù hợp.
Viện Kiểm sát Nhân dân TP. Hà Nội cũng cho rằng, án sơ thẩm bỏ sót yêu cầu khởi kiện của VAMC. VAMC yêu cầu nếu xử lý tài sản bảo đảm không đủ để trả nợ thì Công ty Tiến Đạt phải có nghĩa vụ tiếp tục trả nợ, nhưng bản án sơ thẩm không đề cập đến yêu cầu này.
Hợp đồng thế chấp giả tạo, lừa dối
Sau phiên tòa sơ thẩm, vợ chồng ông Nguyễn Quốc Trung, người có nghĩa vụ liên quan đã kháng cáo toàn bộ bản án, đề nghị tòa tuyên vô hiệu hợp đồng thế chấp nhà đất ở số 62 Lê Trọng Tấn (Hà Nội).
Đại diện vợ chồng ông Trung trình bày, nhà đất này do vợ chồng ông Trung mua lại từ chủ cũ. Sau này, do có nhu cầu vay tiền (10 tỷ đồng) nên ông Trung đã nhờ ông Nguyễn Văn Thành đứng lên vay giúp. Do ông Thành yêu cầu phải để ông Thành đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà đất tại số 62 Lê Trọng Tấn thì mới đi vay giúp, vợ chồng ông Trung đã nhờ chủ cũ ký lại hợp đồng, thay vì bán cho vợ chồng ông Thành thì ký bán cho vợ chồng ông Trung. Sau đó, ông Nguyễn Văn Thành đã làm thủ tục sang tên sổ đỏ và thế chấp vay Sacombank 13 tỷ đồng.
Giữa vợ chồng ông Trung và ông Thành đã ký cam kết, theo đó, ông Thành nhận đứng tên hộ trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để vay hộ tiền, vợ chồng ông Trung có nghĩa vụ trả lãi cho ông Thành để ông Thành trả lãi cho Sacombank.
Phía vợ chồng ông Trung cho rằng hợp đồng chuyển nhượng nhà đất số 62 Lê Trọng Tấn giữa chủ cũ với ông Thành chỉ là giả tạo, nhằm che giấu quan hệ vay mượn giữa ông Thành và vợ chồng ông Trung. Thực tế, ông Thành không có quan hệ mua bán nhà, cũng không trả tiền, không sử dụng nhà. Vợ chồng ông Trung đã trả tiền cho chủ cũ và nhận nhà, ở đó đến nay. Do đó, hợp đồng thế chấp cũng bị vô hiệu do bị lừa dối.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện Kiểm sát Nhân dân TP. Hà Nội nhận định, chưa có đủ căn cứ xác định số nợ lãi của Công ty Tiến Đạt. Theo hợp đồng hạn mức thì lãi suất sẽ được điều chỉnh theo từng thời kỳ và phù hợp với pháp luật. Công ty Tiến Đạt có vốn điều lệ 80 tỷ đồng, thuộc diện doanh nghiệp vừa và nhỏ, theo quy định về áp lãi suất trần đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ thì lãi suất Công ty phải chịu sẽ không quá 13%/năm. Nếu lãi suất được điều chỉnh theo từng thời kỳ thì nợ lãi không đến mức 22 tỷ đồng như ngân hàng yêu cầu, tổng số nợ gốc và lãi chỉ khoảng hơn 42 tỷ đồng, không lên tới hơn 51 tỷ đồng như bản án sơ thẩm đã tuyên. Vấn đề này không thể khắc phục được tại cấp phúc thẩm do hồ sơ vụ án không có tài liệu để xác định lãi suất qua các thời kỳ có được điều chỉnh hay không.
Theo Hội đồng xét xử phúc thẩm, Tòa cấp sơ thẩm đã xác định thiếu người tham gia tố tụng, không xác định thực tế cá nhân, tổ chức đang sinh sống, thuê trụ sở tại địa điểm liên quan tài sản bảo đảm và bỏ sót yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về số tiền gốc và lãi, hợp đồng tín dụng có điều khoản điều chỉnh lãi suất theo từng thời kỳ, nhưng tòa án cấp sơ thẩm không thu thập đầy đủ chứng cứ, không xem xét và cũng không có tài liệu biểu tính lãi, mức lãi mà ngân hàng áp dụng từng thời kỳ để làm cơ sở tính lãi phát sinh. Cấp sơ thẩm cũng không phân định lãi trong hạn, lãi quá hạn, thậm chí chấp nhận cả lãi phạt chậm trả, lãi chồng lãi dẫn đến số liệu khác nhau, nhưng không có cơ sở để làm rõ.
Xét thấy vấn đề xác định thiếu người tham gia tố tụng, không thu thập đủ chứng cứ, bỏ sót yêu cầu khởi kiện, tòa án cấp phúc thẩm không khắc phục được nên Hội đồng xét xử đã tuyên hủy án sơ thẩm, giao về cấp sơ thẩm giải quyết lại. Đối với yêu cầu của ông Nguyễn Quốc Trung (cho rằng hợp đồng thế chấp vô hiệu do lừa dối giả tạo), nội dung này sẽ được xem xét khi giải quyết lại vụ án.
Thời hạn xét xử đối với vụ án dân sự
Theo quy định tại Điều 203, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án dân sự là từ 2 – 4 tháng , kể từ ngày thụ lý vụ án, tùy thuộc loại vụ án.
Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì chánh án toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá 1 – 2 tháng tùy thuộc loại vụ án.
Nếu toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì trong thời hạn một tháng kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là hai tháng.
Đương sự có quyền xin hoãn phiên tòa 1 lần. Khi phiên tòa được mở lại mà vẫn vắng mặt thì tòa án xét xử vắng mặt.
Theo quy định tại Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP về những vụ án có tính chất phức tạp là những vụ án có nhiều đương sự, có liên quan đến nhiều lĩnh vực; vụ án có nhiều tài liệu, có các chứng cứ mâu thuẫn với nhau cần có thêm thời gian để nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có trong hồ sơ vụ án hoặc tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn...
Tuy nhiên, đối với trường hợp cần phải chờ ý kiến của các cơ quan chuyên môn, cần phải chờ kết quả giám định kỹ thuật phức tạp hoặc cần phải chờ kết quả uỷ thác tư pháp mà đã hết thời hạn chuẩn bị xét xử (kể cả thời gian gia hạn), thì thẩm phán có thể đình chỉ giải quyết vụ án dân sự.