Uỷ ban Kinh tế Quốc hội vẫn lo điều kiện thu hồi đất

0:00 / 0:00
0:00
Không chỉ yêu cầu xác định các trường hợp thu hồi đất phải được quy định trong luật mà còn yêu cầu các trường hợp đó phải là trường hợp “thật cần thiết”, theo Ủy ban Kinh tế.
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, ông Vũ Hồng Thanh.

Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, ông Vũ Hồng Thanh.

Tiếp tục Kỳ họp thứ năm, sáng 9/6, Quốc hội nghe báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý, kết quả lấy ý kiến Nhân dân và báo cáo thẩm tra dự án Luật Đất đai sửa đổi.

Phải là trường hợp “thật cần thiết”

Trình bày báo cáo thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh nêu nhiều vấn đề cần tiếp tục được sửa đổi.

Cụ thể, ông Thanh đề nghị chỉnh sửa quy định dự thảo theo hướng chặt chẽ hơn về điều kiện chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp, trong đó, có tính đến đặc thù các loại đất thực hiện việc chuyển nhượng quyền sử dụng và đối tượng nhận chuyển nhượng.

Đối với đất trồng lúa, trường hợp thật cần thiết mở rộng đối tượng nhận chuyển nhượng đất trồng lúa là cá nhân không trực tiếp sản xuất nông nghiệp, đề nghị nghiên cứu bổ sung quy định cá nhân nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất trồng lúa thì phải thành lập tổ chức kinh tế đáp ứng yêu cầu quy định tại khoản 5 Điều 46 (có phương án sử dụng đất nông nghiệp được Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chấp thuận); nghiên cứu thực hiện thí điểm tại một số địa phương, đánh giá, tổng kết trước khi áp dụng ở quy mô rộng hơn, ông Thanh nêu quan điểm của cơ quan thẩm tra.

Về thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng (Điều 79) cơ quan thẩm tra đề nghị không quy định theo cách dẫn chiếu sang quy định tại các điều, khoản khác mà có quy định cụ thể, rõ ràng ngay tại điều này.

Trong các trường hợp thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội, vì lợi ích quốc gia, công cộng, Ủy ban Kinh tế nhất trí với các trường hợp Nhà nước thu hồi đất để điều tiết chênh lệch giá trị tăng thêm từ đất do thay đổi quy hoạch, đầu tư kết cấu hạ tầng, hài hòa lợi ích giữa Nhà nước - người dân - nhà đầu tư và các trường hợp thu hồi đất để bảo đảm điều kiện thực hiện dự án đầu tư sử dụng đất, từ dự án đầu tư sẽ tạo ra nguồn thu mới cho ngân sách nhà nước, đem lại lợi ích tổng thể cho toàn dân, toàn xã hội.

Song, Ủy ban thẩm tra đề nghị rà soát Điều 80 về điều kiện thu hồi đất vì mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng bảo đảm tuân thủ quy định tại khoản 3 Điều 54 Hiến pháp năm 2013, không chỉ yêu cầu xác định các trường hợp thu hồi phải được quy định trong Luật (luật định) gắn với mục đích quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng mà còn yêu cầu các trường hợp đó phải là trường hợp “thật cần thiết”.

Giá đất phải bảo đảm hài hòa lợi ích

Liên quan đến giá đất, ông Thanh nêu rõ, quy định như dự thảo về “phương pháp định giá đất theo nguyên tắc thị trường” là chưa thực sự rõ ràng, chưa bảo đảm thể chế đầy đủ, toàn diện theo yêu cầu của Nghị quyết số 18-NQ/TW về phát huy cao nhất giá trị nguồn lực đất đai, chính sách tài chính về đất đai phải bảo đảm hài hoà lợi ích của Nhà nước, người sử dụng đất và nhà đầu tư.

Cơ quan thẩm tra nhấn mạnh, đất đai là nguồn lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Khi tiền thuê đất, tiền sử dụng đất, chi phí bồi thường, hỗ trợ, tái định cư quá lớn, dẫn đến giảm sự cạnh tranh về giá hàng hóa, dịch vụ, cạnh tranh về thu hút đầu tư, không tạo ra nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội.

Trong khi đó, cần xác định khi thu hồi đất thực hiện các dự án để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng thì lợi ích đem lại là cho toàn dân. Việc duy trì một mặt bằng hợp lý chi phí liên quan đến đất sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh phát triển bền vững, từ đó tạo việc làm, thu nhập cho người lao động, tạo nguồn thu bền vững cho ngân sách nhà nước.

Với cách tiếp cận như vậy, ông Thanh đề nghị Cơ quan soạn thảo phối hợp với Bộ Tài chính nghiên cứu chỉnh sửa để có quy định bảo đảm tính khả thi, bổ sung nguyên tắc định giá đất bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, người dân và nhà đầu tư, phù hợp với Nghị quyết số 18-NQ/TW và rà soát, chỉnh sửa các quy định có liên quan bảo đảm nguyên tắc này; làm rõ “giá đất” hay “giá quyền sử dụng đất”; mối quan hệ giữa “giá đất” và “bảng giá đất”.

Về bảng giá đất, đề nghị từ cơ quan thẩm tra là cần nghiên cứu để có lộ trình thích hợp và có phương án quy định linh hoạt hơn trong trường hợp đến thời hạn ngày 1/1/2026 vẫn chưa hoàn thành được việc xây dựng Bảng giá đất hằng năm, nhất là đối với các địa phương có điều kiện khó khăn, không có nhiều dữ liệu để xây dựng bảng giá đất.

Cơ quan thẩm tra cũng đề nghị xem xét thành phần Hội đồng thẩm định bảng giá đất và Hội đồng thẩm định giá đất cụ thể theo hướng nâng cao tính chuyên môn và bảo đảm tính độc lập giữa cơ quan định giá, cơ quan thẩm định giá và cơ quan quyết định giá đất, bảo đảm thể chế hóa đúng tinh thần của Nghị quyết 18-NQ/TW.

Quy định tách bạch về thẩm quyền quyết định; làm rõ căn cứ, tiêu chí và trách nhiệm của 2 Hội đồng này; quan hệ giữa thẩm quyền của 2 Hội đồng này với thẩm quyền quyết định giá đất của Ủy ban nhân dân và tổ chức tư vấn, định giá đất. Bổ sung, làm rõ việc tham gia của các chuyên gia thẩm định độc lập vào thành phần của 2 Hội đồng nêu trên; cách xử lý trong trường hợp không mời được chuyên gia độc lập.

Cơ quan thẩm tra đề nghị cân nhắc kỹ lưỡng việc bỏ quy định đất sử dụng cho khu kinh tế. Bởi chế định này đã được quy định và thực hiện trong suốt thời gian dài, được thể hiện trong chỉ tiêu quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất quốc gia được Quốc hội thông qua và đã được Thủ tướng Chính phủ phân bổ về các địa phương để thực hiện.

Theo đánh giá của một số địa phương, việc bãi bỏ quy định này sẽ tác động đến việc đầu tư xây dựng các khu chức năng trong khu kinh tế; giảm sự thuận lợi về thủ tục hành chính “một cửa tại chỗ” tại khu kinh tế; không còn sự khác biệt giữa đầu tư các khu chức năng theo quy hoạch khu kinh tế và đầu tư ngoài khu kinh tế, ảnh hưởng đến định hướng phát triển các khu kinh tế; giảm sự thuận lợi khi triển khai thực hiện các dự án có quy mô lớn; công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, tiến độ triển khai dự án sẽ chậm hơn.

Tin bài liên quan