Ảnh minh họa. Nguồn: Internet
Dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt "Đề án cấp nước sạch nông thôn giai đoạn 2021 - 2025” đang được Bộ NN&PTNT xây dựng với các giải pháp như: Ưu tiên hỗ trợ ngân sách Nhà nước cho công tác nước sạch nông thôn tại các vùng khó khăn; sửa đổi cơ chế, chính sách nhằm khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cấp nước sạch nông thôn; xây dựng chính sách hỗ trợ đầu tư, quản lý vận hành công trình sau đầu tư tại các vùng khan hiếm, khó khăn về nguồn nước…
Bộ NN&PTNT cho biết, với nỗ lực thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn qua 3 giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2015, Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020, Chương trình 134, Chương trình 135, Chương trình 30a… và sự đóng góp của các tổ chức quốc tế, lĩnh vực nước sạch nông thôn đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
Đến nay, cả nước hiện có 88,5% dân số nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh, trong đó 51% dân số nông thôn (khoảng 33 triệu người) sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn QCVN 02:2009/BYT của Bộ Y tế. Tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước sạch từ công trình cấp nước tập trung, cấp nước quy mô hộ gia đình lần lượt là 41% và 10%.
Toàn quốc hiện có 16.573 công trình cấp nước tập trung nông thôn phục vụ cấp nước sinh hoạt cho 28,3 triệu người (44% tổng dân số nông thôn). Trong đó, hoạt động bền vững chiếm 33,1%, tương đối bền vững chiếm 35,3%, kém bền vững chiếm 17%; không hoạt động chiếm 14,6%. Các công trình hoạt động bền vững và tương đối bền vững chiếm tỷ lệ 68,4%, tập trung chủ yếu tại các vùng Đồng bằng sông Hồng, Đông Nam Bộ, Đồng bằng sông Cửu Long, trong khi các công trình hoạt động kém bền vững và không hoạt động chiếm tỷ lệ 31,6% tập trung chủ yếu ở miền núi phía bắc (35%), Bắc Trung Bộ (35%), Nam Trung Bộ (44%) và Tây Nguyên (48%)...
Tuy nhiên, tỷ lệ dân số nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn chưa thực sự bền vững do yêu cầu ngày càng cao của chất lượng nước. Cả nước vẫn còn hơn 31 triệu người dân nông thôn chưa được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn. Trong khi đó, tại một số nơi ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi, vùng khan hiếm, khó khăn về nguồn nước, tỷ lệ người dân sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn thấp hơn nhiều so với mức trung bình của cả nước. Cụ thể, vùng miền núi phía bắc đạt 31%, vùng Tây Nguyên đạt 26,6% so với mức trung bình 51% của cả nước...
Để tiếp tục phát huy thành tựu đã đạt được, khắc phục các tồn tại, hạn chế trong thời gian qua, đồng thời chủ động vượt qua các khó khăn, thách thức trong giai đoạn tới, việc xây dựng “Đề án cấp nước sạch nông thôn giai đoạn 2021 - 2025” là rất cần thiết nhằm mục đích vừa đảm bảo cấp nước phục vụ an sinh xã hội, vừa phát triển theo xu hướng thị trường đảm bảo ổn định, bền vững trong điều kiện thiên tai, biến đổi khí hậu và đạt được mục tiêu cấp nước đến năm 2025 đảm bảo 60% dân số nông thôn được sử dụng nước sạch đạt quy chuẩn, góp phần thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết với Liên Hợp Quốc.
Để đạt được mục tiêu trên, dự thảo đề ra các nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu, như phát huy hiệu quả quản lý công tác nước sạch nông thôn và thu hút mọi nguồn lực xã hội tham gia đầu tư, quản lý vận hành công trình cấp nước sạch nông thôn; đầu tư xây dựng, nâng cấp, sửa chữa, cải tạo các công trình cấp nước tập trung nhằm đảm bảo cấp đủ nước sinh hoạt cho người dân đáp ứng yêu cầu chất lượng nước, nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, ứng phó thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu.
Rà soát, sửa đổi cơ chế, chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cấp nước sạch nông thôn theo hướng đơn giản hóa các quy trình, thủ tục, phù hợp với thực tiễn, mở rộng đối tượng được ưu đãi, hỗ trợ đầu tư.
Xây dựng chính sách hỗ trợ đầu tư, quản lý vận hành công trình sau đầu tư tại các vùng khan hiếm, khó khăn về nguồn nước, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng bãi ngang ven biển, biên giới, hải đảo, vùng thường xuyên bị ảnh hưởng bởi thiên tai, ô nhiễm nguồn nước.
Huy động tổng thể các nguồn lực, thực hiện đồng bộ 2 giải pháp cơ bản, đó là thực hiện chính sách an sinh xã hội, ưu tiên hỗ trợ ngân sách Nhà nước cho công tác nước sạch nông thôn tại các vùng khó khăn và phát triển xã hội hóa công tác cấp nước sạch nông thôn.