Hải quan Trung Quốc đã cấp 51 mã số vùng trồng và 25 cơ sở đóng gói cho sầu riêng Việt Nam.
Văn phòng Thông báo và điểm hỏi đáp quốc gia về vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động thực vật Việt Nam (SPS Việt Nam) cho biết, Văn phòng vừa nhận được thông báo về kết quả kiểm tra bằng video của các doanh nghiệp xuất khẩu sầu riêng tươi của Việt Nam sang Trung Quốc.
Theo đó, có 51 mã số vườn trồng và 25 mã số cơ sở đóng gói đáp ứng các yêu cầu của Nghị định thư và được chấp thuận để sản phẩm sầu riêng từ các cơ sở này xuất khẩu sang nước họ.
Trong 51 mã số vùng trồng, Đắk Lắk có 23 mã số, Đồng Nai 7, Bình Phước 5, Tiền Giang 3, Bến Tre 2, Long An 2, Bình Thuận 2, Khánh Hòa 2, Kon Tum 2, Đồng Tháp 1, Lâm Đồng 1 và Tây Ninh 1 mã số.
Với các cơ sở đóng gói: Tiền Giang có 10 mã số, Đắk Lắk 4, Bến Tre 3, Đồng Nai 3, Lâm Đồng 2, Đồng Tháp 1, Khánh Hòa 1, Hải Dương 1 mã số.
Theo quy định của Nghị định thư do Trung Quốc và Việt Nam ký kết, trước khi bắt đầu giao thương, phía Trung Quốc sẽ tiến hành rà soát việc tuân thủ Nghị định thư đối với các doanh nghiệp xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam.
Kể từ ngày 15/7 - 4/9, Tổng cục Hải quan Trung Quốc đã tiến hành đánh giá kiểm định các video qua hình thức trực tuyến về vườn trồng và cơ sở đóng gói.
Danh sách các mã số vùng trồng và cơ sở đóng gói được Hải quan Trung Quốc công bố là kết quả của việc đánh giá toàn diện bởi các chuyên gia Trung Quốc, kết hợp kiểm tra video, xem xét tài liệu trong tổng số 126 mã số vùng trồng và 44 mã số cơ sở đóng gói do cơ quan chức năng Việt Nam đề xuất.
Sau khi xem xét, đánh giá, phía Trung Quốc cho rằng, các vườn sầu riêng và cơ sở đóng gói của Việt Nam về cơ bản có thể tiến hành trồng, sản xuất, chế biến theo đúng yêu cầu của Nghị định thư, việc kiểm dịch, giám sát đã được thực hiện tốt.
Đối với 50 vườn trồng và 11 cơ sở đóng gói chưa đáp ứng yêu cầu, phía Trung Quốc đề nghị Việt Nam yêu cầu các doanh nghiệp cung cấp tài liệu xác minh sau khi hoàn thành việc rà soát, khắc phục để xem xét đánh giá thêm.
Đồng thời, phía Trung Quốc đã phát hiện các vấn đề sau trong quá trình kiểm tra. Điển hình như một số vườn trồng còn lẫn các loại cây khác ngoài sầu riêng như ngô, cà phê, ổi... và không có biện pháp ngăn chặn sự lây nhiễm chéo sâu bệnh giữa các loài khác nhau. Một số vườn cây ăn quả không thực hiện theo dõi dịch hại, tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu của quy trình.
Nếu nhiều vườn không theo dõi ruồi đục quả, hoặc chỉ treo bảng vàng hoặc bẫy, hoặc sử dụng bẫy không đúng cách, hoặc chỉ sử dụng đèn bẫy thì khả năng xác định dịch hại của người quản lý vườn vẫn cần được tăng cường; một số vườn cây ăn trái chưa thực hiện giám sát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật, thậm chí có tham gia dự án giám sát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật nhưng kết quả giám sát chưa rõ.
Trình độ quản lý của các cơ sở đóng gói còn có sự chênh lệch lớn, một số nhà xưởng đã cũ, mặt bằng không đủ cứng, vệ sinh môi trường tổng thể kém, khu vực nhà máy gần với khu sinh hoạt, không có cách ly về mặt vật lý; một số nhà máy đóng gói không vệ sinh bụi và sinh vật gây hại khi cọ rửa bề mặt sầu riêng, nhận dạng, có thể gây ô nhiễm thứ cấp và việc giám sát dịch hại không được thực hiện.
Về các biện pháp phòng chống Covid-19, một số nhà máy và vườn cây ăn quả không có phương tiện rửa tay, chỉ khử trùng.
Phía Trung Quốc cũng đã công bố danh sách các doanh nghiệp xuất khẩu sầu riêng của Việt Nam đáp ứng yêu cầu trên trang web chính thức của Tổng cục Hải quan Trung Quốc.