Ảnh minh họa.
Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) vừa có công văn số 14038/BGTVT – KHĐT gửi lãnh đạo Chính phủ về phương án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Quy Nhơn - Pleiku qua hai tỉnh Gia Lai và Bình Định.
Tại công văn này, Bộ GTVT kiến nghị lãnh đạo Chính phủ xem xét chấp thuận chuyển nghiên cứu đầu tư Dự án đường bộ cao tốc Quy Nhơn - Pleiku theo phương thức PPP sang nghiên cứu đầu tư theo hình thức đầu tư công; đồng thời giao bộ này là cơ quan chủ quản, phối hợp với UBND các tỉnh Gia Lai và Bình Định tổ chức lập Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Dự án, trình cấp có thẩm quyền phê duyệt theo quy định.
Dự kiến, Dự án đường bộ cao tốc Quy Nhơn - Pleiku sẽ được chuẩn bị đầu tư từ năm 2025, thực hiện đầu tư và hoàn thành, khai thác trong giai đoạn 2026-2030.
Theo đề xuất của Bộ GTVT, Dự án đường bộ cao tốc Quy Nhơn – Pleiku có điểm đầu tại thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định; điểm cuối tại nút giao đường Hồ Chí Minh, thuộc TP. Pleiku, tỉnh Gia Lai; chiều dài toàn tuyến khoảng 123 km, trong đó đoạn qua tỉnh Bình Định dài khoảng 37,4 km, đoạn qua tỉnh Gia Lai dài khoảng 85,6 km.
Tuyến đường thuộc phạm vi Dự án được đầu tư hoàn chỉnh theo quy hoạch được duyệt với quy mô 4 làn xe, bề rộng nền đường 24,75 m, vận tốc thiết kế 100 km/h. Riêng các đoạn qua khu vực hầm An Khê và hầm Mang Yang có địa hình khó khăn nghiên cứu quy mô 4 làn xe, vận tốc thiết kế 80 km/h.
Theo kết quả rà soát, cập nhật đến nay của UBND 2 tỉnh: Bình Định và Gia Lai, sơ bộ tổng mức đầu tư Dự án khoảng 36.594 tỷ đồng, trong đó chi phí giải phóng mặt bằng khoảng 3.733 tỷ đồng; chi phí xây dựng, thiết bị khoảng 26.833 tỷ đồng; chi phí tư vấn đầu tư, quản lý dự án, chi phí khác khoảng 2.012 tỷ đồng; chi phí dự phòng khoảng 4.015 tỷ đồng.
Với chiều dài tuyến khoảng 123 km, quy mô 4 làn xe hoàn chỉnh theo quy hoạch, suất vốn đầu tư của Dự án (không bao gồm chi phí giải phóng mặt bằng) khoảng 267 tỷ đồng/km.
So với suất vốn đầu tư được Bộ Xây dựng công bố (đường cao tốc 4 làn xe khoảng 187,24 tỷ đồng/km), suất vốn đầu tư của Dự án đang cao hơn khoảng 80 tỷ đồng/km do Dự án có khối lượng công trình cầu và hầm chiếm tỷ trọng lớn, đặc biệt là 2 công trình hầm An Khê và Mang Yang tổng chiều dài khoảng 5 km (chi phí vốn đầu tư khoảng 4.800 tỷ đồng) và công trình cầu dẫn trước hầm An Khê và Mang Yang tổng chiều dài khoảng 8 km dự kiến có chiều cao trụ lớn hơn 50m (chi phí vốn đầu tư khoảng 6.200 tỷ đồng).
Liên quan đến phương án đầu tư Dự án theo phương thức PPP, Bộ GTVT cho biết là triển khai chỉ đạo của Thủ tướng, UBND tỉnh Gia Lai đã phối hợp với UBND tỉnh Bình Định, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) và một số đối tác tiến hành khảo sát, nghiên cứu phương án đầu tư Dự án.
Theo báo cáo của UBND các tỉnh Gia Lai và Bình Định vào tháng 5/2024, kết quả nghiên cứu, tính toán sơ bộ phương án tài chính Dự án cho thấy, với kịch bản mức vốn hỗ trợ của nhà nước tối đa 50% tổng mức đầu tư theo quy định của Luật PPP, Dự án không đảm bảo hiệu quả về tài chính theo quy định.
Trường hợp để Dự án hiệu quả về tài chính và thời gian thu hồi vốn với các kịch bản khoảng 25 năm, 18 năm và 10 năm, mức vốn hỗ trợ của nhà nước cần tham gia hỗ trợ Dự án chiếm tỷ lệ từ 76% đến 88% tổng mức đầu tư. Vì vậy, việc đầu tư theo phương thức PPP không hiệu quả, khó khả thi.
Trước yêu cầu thực tiễn, sự cần thiết đầu tư và quy định pháp luật, trên cơ sở kết quả rà soát về phạm vi, quy mô, sơ bộ tổng mức đầu tư Dự án, Bộ GTVT đã phối hợp với UBND tỉnh Gia Lai và Bình Định nghiên cứu một cách cẩn trọng, kỹ lưỡng đối với hình thức đầu tư Dự án theo phương thức PPP.
Với kịch bản công tác giải phóng mặt bằng được tách thành một dự án thành phần độc lập sử dụng vốn đầu tư công (khoảng 3.733 tỷ đồng) và dự án thành phần PPP (khoảng 32.861 tỷ đồng) được áp dụng tỷ lệ vốn nhà nước không quá 70% sơ bộ tổng mức đầu tư theo nội dung Luật PPP sửa đổi thì phần vốn nhà nước cần tham gia hỗ trợ để đảm bảo tính khả thi về phương án tài chính dự án thành phần PPP khoảng 23.673 tỷ đồng; thời gian thu phí hoàn vốn Dự án khoảng 25,1 năm; tổng mức vốn hỗ trợ của nhà nước tham gia Dự án (bao gồm chi phí giải phóng mặt bằng) khoảng 27.406 tỷ đồng, chiếm khoảng 75% sơ bộ tổng mức đầu tư Dự án.
Trường hợp để dự án thành phần PPP hiệu quả về tài chính và thời gian thu hồi vốn với các kịch bản khoảng 21 năm, 18 năm và 16 năm thì phần vốn nhà nước cần tham gia hỗ trợ dự án PPP khoảng 24.929 - 27.565 tỷ đồng (chiếm 74 - 82,5% sơ bộ tổng mức dự án PPP); tổng mức vốn hỗ trợ của nhà nước tham gia Dự án (bao gồm chi phí giải phóng mặt bằng) khoảng 28.662 - 31.298 tỷ đồng (chiếm khoảng 78,3 - 85,5% sơ bộ tổng mức đầu tư Dự án).
Theo kết quả nghiên cứu phương án đầu tư Dự án theo phương thức PPP nêu trên, trường hợp áp dụng các quy định sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật PPP vừa được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 8, Dự án có hiệu quả tài chính thấp, thời gian thu phí hoàn vốn dài trên 25 năm, sẽ khó khả thi trong việc thu hút nhà đầu tư và nguồn vốn tín dụng để thực hiện.
Trường hợp để Dự án có hiệu quả về tài chính và thời gian thu hồi vốn với kỳ vọng dưới 21 năm (có khả năng đáp ứng điều kiện cho vay của các tổ chức tài chính, tín dụng) thì tổng mức vốn của nhà nước cần tham gia hỗ trợ Dự án chiếm tỷ lệ khoảng 78,3 - 85,3% (khoảng 28.662 - 31.298 tỷ đồng) sơ bộ tổng mức đầu tư.
Mức vốn hỗ trợ này là rất lớn, không phát huy được hiệu quả khi đầu tư theo phương thức PPP và chủ trương vốn nhà nước đóng vai trò là “vốn mồi” để thu hút các nguồn vốn xã hội hóa tham gia đầu tư kết cấu hạ tầng.
“Vì vậy, tương tự như Dự án đường bộ cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột, việc UBND các tỉnh Gia Lai và Bình Định đề xuất dừng nghiên cứu đầu tư theo phương thức PPP và chuyển sang hình thức đầu tư công là có cơ sở”, Bộ GTVT đánh giá.