Phó chủ tịch thường trực UBND TP.HCM Lê Thanh Liêm vừa kiến nghị Bộ Tài chính tham mưu Chính phủ, đưa loại hình hoạt động đòi nợ vào danh mục ngành nghề cấm kinh doanh.
Nếu không thể cấm, thành phố đề nghị trung ương ban hành các quy định bắt buộc để siết chặt hoạt động như: quy định về đồng phục, số lượng nhân viên tối đa mỗi lần đòi nợ... để tránh tụ tập băng nhóm gây mất an ninh trật tự.
Động thái này được thành phố đưa ra do dịch vụ đòi nợ thuê đang biến tướng, có dấu hiệu cấu kết băng nhóm gây nhiều hệ lụy, ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội. Các công ty này thường sử dụng chiêu trò, đe dọa mang tính chất xã hội đen; trấn áp, khủng bố tinh thần gây hoang mang cho con nợ.
Chính quyền thành phố khẳng định "vay nợ" là quan hệ dân sự, hoặc hợp đồng kinh tế. Khi có tranh chấp, các bên tham gia thỏa thuận hoặc khởi kiện để tòa án giải quyết.
Nhà nước còn có đầy đủ hệ thống pháp luật, cơ quan bảo vệ và thực thi pháp luật như tòa án, VKS, thi hành án... nên không cần có thêm loại hình đòi nợ thuê.
Tính đến cuối năm 2017, thành phố có 65 doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh dịch vụ đòi nợ. Tuy nhiên, chỉ có 44 công ty hoàn tất thủ tục và được cơ quan công an cấp Giấy chứng nhận đủ điều kiện về an ninh, trật tự để hoạt động.
Các công ty này vốn điều lệ lớn nhất là 200 tỷ đồng, thấp nhất là 2 tỷ đồng. Số doanh nghiệp "chui" còn lại không hoạt động tại địa điểm đã đăng ký.
Hồi tháng 8, trong dự thảo Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều về việc kinh doanh dịch vụ đòi nợ thuê, Bộ Tài chính đề xuất Bộ Công an chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về an ninh, trật tự với các công ty này.
Các doanh nghiệp phải cấp đồng phục cho người lao động (có tên công ty, mẫu công khai tại trụ sở chính và các chi nhánh).
Nhân viên phải đeo thẻ và xuất trình giấy giới thiệu của công ty khi làm việc với khách nợ hoặc tổ chức, cá nhân liên quan. Khi nhân viên kết thúc hợp đồng lao động, doanh nghiệp phải thu hồi trang phục và thẻ đã cấp.