Theo đơn khởi kiện, trong thời gian chung sống, năm 2015, bà Phùng Thị V. (vợ ông T .) ký hợp đồng mua căn hộ với CTCP Thảo Điền tại khu nhà ở cao tầng kết hợp thương mại dịch vụ tại phường Thảo Điền, quận 2, TP.HCM.
Khoảng giữa năm 2019, do bà V. bận việc, phải đi nước ngoài thường xuyên nên đã ủy quyền cho chồng thay mặt giải quyết các khoản vay tín dụng và rao bán căn hộ trên. Ngày 11/9/2019, ông T. đã bán căn hộ trên với giá 25 tỷ đồng. Ông T. làm thủ tục kê khai thuế để sang tên cho người mua.
Chi cục thuế quận 2 thông báo cho biết, căn hộ trên chỉ có vợ ông T. được miễn thuế, còn ông T. phải chịu thuế thu nhập cá nhân 2%, tương đương 500 triệu đồng. Ông T. đã nộp đủ số tiền trên để hoàn thiện nghĩa vụ tài chính.
Mặc dù nộp thuế đầy đủ, nhưng ông T. nhận thấy thông báo thu thuế với ông là không phù hợp với quy định về thuế thu nhập cá nhân. Trung tuần tháng 11/2019, ông T. gửi đơn khiếu nại song cơ quan thuế xác định ông phải nộp thuế 2%. Ông T. không đồng ý nên đâm đơn khởi kiện ra tòa án.
Ông T. cho rằng, căn hộ trên thuộc quyền sở hữu riêng của bà V., ông chỉ là người được ủy quyền bán tài sản. Ông T. đề nghị hủy thông báo trên, buộc cơ quan thuế hoàn trả lại số tiền thuế đã thu.
Đại diện cơ quan thuế giải thích, qua xem xét hồ sơ nhận thấy, căn hộ trên không phải là tài sản đồng sở hữu, mà là tài sản riêng của bà V. Theo khoản 5d, Điều 3, Nghị định số 65/2013-NĐ-CP ngày 27/6/2013 thì bà V. vừa là đối tượng được miễn thuế thu nhập cá nhân với hợp đồng ủy quyền do có mối quan hệ giữa vợ và chồng, vừa là đối tượng được miễn theo trường hợp có quyền sở hữu nhà ở, quyền sử dụng đất ở duy nhất tính đến thời điểm chuyển nhượng tối thiểu là 183 ngày.
Còn ông Nguyễn Minh T. được ủy quyền đứng tên định đoạt tài sản và thông qua văn phòng công chứng ký chuyển nhượng căn hộ. Ông T. không đủ điều kiện được xét miễn thuế.
Tòa án nhận định, theo Điều 3 và Điều 4, Luật Thuế thu nhập cá nhân, Điều 4 của Nghị định số 65 thì bà V. là đối tượng được miễn thuế thu nhập cá nhân.
Còn theo Điều 562, 565 Bộ luật Dân sự 2015 thì ông T. được quyền thay mặt và nhân danh bà V. khai và nộp thuế liên quan đến các hành vi được ủy quyền. Như vậy, hành vi của ông T. khai và nộp thuế thu nhập cá nhân cũng thực hiện thay mặt và nhân danh bà V. Do bà V. được miễn thuế nên ông T. không phải nộp thay.
Mặt khác, giá trị chuyển nhượng tài sản vẫn thuộc sở hữu của bà V. và không có chứng cứ nào thể hiện hợp đồng ủy quyền là giao dịch giả tạo nhằm trốn thuế.
Với căn cứ trên, tòa án đã tuyên chấp nhận đơn kiện của ông T., hủy thông báo nộp thuế trên.
Điều 565. Nghĩa vụ của bên được ủy quyền
1. Thực hiện công việc theo ủy quyền và báo cho bên ủy quyền về việc thực hiện công việc đó.
2. Báo cho người thứ ba trong quan hệ thực hiện ủy quyền về thời hạn, phạm vi ủy quyền và việc sửa đổi, bổ sung phạm vi ủy quyền.
3. Bảo quản, giữ gìn tài liệu và phương tiện được giao để thực hiện việc ủy quyền.
4. Giữ bí mật thông tin mà mình biết được trong khi thực hiện việc ủy quyền.
5. Giao lại cho bên ủy quyền tài sản đã nhận và những lợi ích thu được trong khi thực hiện việc ủy quyền theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật.
6. Bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ quy định tại Điều này.