100% người nghèo và các đối tượng chính sách khác có nhu cầu và đủ điều kiện đều được tiếp cận với các sản phẩm dịch vụ do Ngân hàng Chính sách xã hội cung cấp.

100% người nghèo và các đối tượng chính sách khác có nhu cầu và đủ điều kiện đều được tiếp cận với các sản phẩm dịch vụ do Ngân hàng Chính sách xã hội cung cấp.

Tổng nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội gấp 2,6 lần trong 10 năm

0:00 / 0:00
0:00

(ĐTCK) Tại thời điểm 30/11/2020, nợ quá hạn và nợ khoanh Ngân hàng Chính sách xã hội chỉ chiếm tỷ lệ 0,7%/tổng dư nợ, thấp hơn so với mục tiêu của Chiến lược phát triển đề ra.

Nhìn lại việc triển khai Chiến lược phát triển Ngân hàng Chính sách xã hội giai đoạn 2011 - 2020 mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt tại Quyết định số 852/QĐ-TTg ngày 10/7/2012 (Chiến lược phát triển), Uỷ viên Hội đồng quản trị - Tổng giám đốc Ngân hàng Chính sách xã hội Dương Quyết Thắng cho biết, quá trình thực hiện Chiến lược phát triển, tại một số thời điểm gặp nhiều khó khăn, thách thức như đại dịch Covid-19 khiến nguy cơ nghèo và tái nghèo luôn rình rập, khiến tín dụng chính sách xã hội cũng cần có những bước chuyển mới cả về nguồn lực và phương thức hỗ trợ.

Cầu nối hội tụ trí lực giảm nghèo bền vững

Chỉ trong vòng 10 năm, Chính phủ đã hai lần nâng chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo, cùng với đó là số hộ nghèo, cận nghèo tăng lên theo chuẩn mới mang đến áp lực lớn cho Ngân hàng Chính sách xã hội trong vấn đề cung ứng tín dụng.

Nhận thức và dự báo được rõ những diễn tiến phát triển này, Ban điều hành Ngân hàng Chính sách xã hội luôn ý thức được việc huy động và tập trung được các nguồn tài chính là một trong những yếu tố quyết định đến việc thành bại trong việc triển khai tín dụng chính sách xã hội.

Điểm thuận lợi lớn nhất trong giai đoạn này là Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã dành sự quan tâm lớn cho công tác giảm nghèo, quyết liệt chỉ đạo trong việc tập trung nguồn lực lớn để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách thông qua Ngân hàng Chính sách xã hội.

Minh chứng là năm 2017 - năm đầu tiên Ngân hàng Chính sách xã hội được bố trí nguồn vốn trong kế hoạch đầu tư trung hạn giai đoạn 2016 - 2020, tạo tiền đề cho Ngân hàng Chính sách xã hội tăng trưởng nguồn vốn ổn định, bền vững cũng như nâng cao năng lực tài chính.

Nhìn lại cả giai đoạn 2011 - 2020, ngân sách Nhà nước đã cấp 41.204,5 tỷ đồng, trong đó cấp bổ sung 8.270,5 tỷ đồng vốn điều lệ, 12.412 tỷ đồng để thực hiện tín các chương trình tín dụng chính sách...

Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư và Quyết định số 401/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch triển khai Chỉ thị số 40-CT/TW đi vào đời sống đã đưa nguồn vốn nhận ủy thác địa phương trở thành điểm nổi bật trong việc tập trung nguồn lực thực hiện hiệu quả tín dụng chính sách xã hội tại địa phương kể từ khi thực hiện Chiến lược phát triển.

Đến 30/11/2020, nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác sang Ngân hàng Chính sách xã hội đạt 20.132 tỷ đồng (trong đó, nguồn vốn ủy thác từ ngân sách cấp huyện là 3.288 tỷ đồng), tăng 17.846 tỷ đồng, tăng gấp 8,8 lần so với năm 2010.

Bên cạnh đó, hệ thống các Tổ chức tín dụng Nhà nước tiếp tục duy trì 2% số dư tiền gửi tại Ngân hàng Chính sách xã hội, đưa nguồn vốn này tăng 6,4 lần so với trước thời điểm thực hiện Chiến lược, từ 12.821 tỷ đồng năm 2010 lên 81.462 tỷ đồng.

Cũng trong thời kỳ này, bên cạnh việc phát hành trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, duy trì nhận tiền gửi tiết kiệm từ người nghèo qua Tổ tiết kiệm và vay vốn, Ngân hàng Chính sách xã hội đã tập trung khai thác các nguồn vốn thị trường, đặc biệt là cho ra đời sản phẩm huy động tiền gửi dân cư tại các Điểm giao dịch xã.

Kết quả từ việc thực hiện theo đúng phương châm “Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân cùng làm”, “Trung ương và địa phương cùng làm” đã làm tăng quy mô tổng nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội gấp 2,6 lần, từ 90.400 tỷ đồng năm 2010 lên 233.456 tỷ đồng sau 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển, tốc độ tăng trưởng tổng nguồn vốn hoạt động tín dụng chính sách đạt bình quân 10%/năm.

Câu chuyện hội tụ nguồn lực không chỉ trên phương diện vốn mà quan trọng hơn là phương thức quản lý và truyền tải vốn tín dụng chính sách trong thời gian qua. Trong đó, việc bổ sung Chủ tịch UBND cấp xã vào Ban đại diện Hội đồng quản trị (HĐQT) Ngân hàng Chính sách xã hội cấp huyện đã tạo sự chuyển biến tích cực và đồng đều trên các mặt hoạt động, nâng cao chất lượng hiệu quả nguồn vốn tín dụng chính sách, nâng cao vai trò quản lý Nhà nước đặc biệt của chính quyền cấp xã với hoạt động tín dụng chính sách xã hội.

Phương thức ủy thác cho vay qua các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục triển khai có hiệu quả hơn từ năm 2014 với việc Ngân hàng Chính sách xã hội cùng các tổ chức này ký kết lại đã gắn kết chặt chẽ 4 nhà là: “Ngân hàng; Chính quyền; Tổ chức chính trị - xã hội; Tổ tiết kiệm và vay vốn” chung tay giúp người nghèo và đối tượng chính sách khác.

Đến 30/11/2020, các tổ chức chính trị - xã hội nhận ủy thác đang phối hợp với Ngân hàng Chính sách xã hội tham gia quản lý 224.344 tỷ đồng, chiếm 99,5%/tổng dư nợ tín dụng chính sách xã hội.

Đẩy nhanh tốc độ giảm nghèo và hội nhập

Cũng chính từ sự “Thấu hiểu lòng dân, tận tâm phục vụ”, câu chuyện thực hiện Chiến lược của Ngân hàng Chính sách xã hội không chỉ là những kế hoạch cứng mà được xây dựng chủ động và linh hoạt theo diễn tiến của nền kinh tế, yêu cầu giảm nghèo của quốc gia, đặc biệt là từ nhu cầu thực tế của người nghèo và các đối tượng chính sách khác. Kết quả là từ năm 2011 đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách tín dụng mới để không ai bị bỏ lại phía sau trong tiến trình phát triển kinh tế.

Song hành với việc mở rộng quy mô, Ngân hàng Chính sách xã hội không ngừng tập trung thực hiện củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng chính sách xã hội. Từ việc chủ động cải thiện chất lượng nợ trong hoạt động hệ thống và trong từng mắt xích trong dây chuyền thực hiện và giám sát cho vay đến việc Ngân hàng Chính sách xã hội thành lập Ban chỉ đạo củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng tại khu vực Tây Nam bộ, và các chi nhánh có chất lượng hoạt động thấp, chủ động báo cáo Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, Tây Nguyên và Tây Bắc về tình hình thực hiện tín dụng chính sách, đề nghị tăng cường sự quan tâm của các cấp ngành đối với việc triển khai tín dụng chính sách ưu đãi trên địa bàn.

Đặc biệt từ năm 2018 đến nay, Ngân hàng Chính sách xã hội đã thực hiện giải pháp tăng cường cán bộ có kinh nghiệm năng lực từ Hội sở chính và các chi nhánh tham gia củng cố chất lượng cho các chi nhánh có chất lượng hoạt động yếu đã góp phần đưa tỷ lệ nợ quá hạn của toàn hệ thống luôn thấp hơn nhiều so với mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển là dưới 3%/tổng dư nợ. Tại thời điểm 30/11/2020, nợ quá hạn và nợ khoanh chỉ chiếm tỷ lệ 0,7%/tổng dư nợ, thấp hơn so với mục tiêu của Chiến lược phát triển đề ra.

Dư nợ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt mục tiêu Chiến lược phát triển; nguồn vốn tín dụng chính sách tập trung ưu tiên cho vay các xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, vùng sâu vùng xa, biên giới.

Giai đoạn 2011 - 2020, tốc độ tăng trưởng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách đạt bình quân khoảng 10%/năm. Quy mô tổng dư nợ các chương trình tín dụng chính sách tăng gấp 2,5 lần, từ 89.462 tỷ đồng năm 2010 lên 225.377 tỷ đồng tại thời điểm 30/11/2020, với gần 6,5 triệu hộ nghèo, hộ cận nghèo và các đối tượng chính sách đang còn dư nợ, trong đó đối với dư nợ cho vay hộ đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi đạt 56.344 tỷ đồng (chiếm 25%/tổng dư nợ), tín dụng chính sách đã đến 100% các xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi.

Kết quả của tất cả những chuyển biến ấy đã khắc sâu vào bức tranh tín dụng chính sách với những gam màu ấm áp. Nguồn vốn tín dụng chính sách xã hội tiếp tục được đầu tư đến 100% xã phường, thị trấn trên cả nước với trên 21,5 triệu lượt hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác vay vốn, với doanh số cho vay lên tới 504.565 tỷ đồng.

Tín dụng chính sách xã hội góp phần giảm tỷ lệ hộ nghèo giai đoạn 2011 - 2015 từ 14,2% xuống 4,25%; tỷ lệ hộ nghèo đa chiều đã giảm từ 9,88% (năm 2016) xuống còn 3,75% (năm 2019), dự kiến xuống dưới 3% (năm 2020).

Tin bài liên quan