10h30,
Hành vi lừa đảo trong việc mua bán cổ phiếu của CTCP Thép Hòa Phát:
Khi ký hợp đồng nhận chuyển nhượng cổ phiếu, Công ty TNHH MTV Thép Hòa Phát hoàn toàn không biết số cổ phiếu nói trên bị thế chấp cho Ngân hàng ACB.
Theo nhận thức bị cáo Kiên, thì khi đàm phán, ông Long, ông Dương (Chủ tịch và Tổng giám đốc Tập đoàn Hòa Phát - PV) biết rõ số cổ phiếu đang được thế chấp và thực chất là việc hoán đổi cổ phiếu. Bị cáo không bao giờ có ý thức chiếm đoạt và đã chỉ đạo nhân viên làm công văn đề nghị giải chấp. Bị cáo có nhiều nghìn tỷ nên không bao giờ có ý định chiếm đoạt
HĐXX nhận thấy, phía Hòa Phát không biết số cổ phiếu đang bị thế chấp, khẳng định không có chuyện hoán đổi, nếu có việc mua bán cổ phiếu khác, thì đó là giao dịch độc lập, không liên quan. Lời khai này phù hợp với hợp đồng mua bán cổ phiếu. Mặt khác, các công ty của Tập đoàn Hòa Phát hoạt động độc lập, có tài khoản, con dấu riêng.
Xét thấy, sau khi nhận được tiền của Thép Hòa Phát, bị cáo chỉ đạo Yến, Thanh sử dụng vào các mục đích khác nhau. Từ khi nhận tiền, đến khi bị bắt không có động tác đến ACB, ACBS để giải quyết giải chấp số cổ phiếu đã bán cho Thép Hòa Phát. Điều này thể hiện ý thức phạm tội của bị cáo.
Do đó, HĐXX thấy rằng, Viện Kiểm sát truy tố là có căn cứ, đúng người đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo không thành khẩn nhận tội, nên phải có hình phạt nghiêm khắc. HĐXX xét thấy cần phạt bị cáo Kiên khoản tiền 100 triệu đồng, tịch thu sung công quỹ Nhà nước.
Bị cáo Yến, Thanh biết việc cổ phiếu chưa được giải chấp, nhưng vẫn ký hợp đồng mua bán, vẫn ký chi số tiền chiếm đoạt được. Hành vi của Yến, Thanh là đồng phạm, giúp sức, nhưng chỉ là người làm công ăn lương, phạm tội một phần do nhận thức hạn chế, nên cần giảm nhẹ hình phạt.
10h45
Hành vi Cố ý làm trái:
Ủy thác cho nhân viên gửi tiền: bị cáo Kiên cho rằng, khi đó chỉ là Phó chủ tịch Hội đồng sáng lập ACB, nhưng không ký Nghị quyết, không có quyền quyets định kinh doanh của ACB. Việc ký ủy thác lúc đó pháp luật không cấm, hậu quả không xảy ra nên bị cáo không phạm tội.
Các bị cáo thừa nhận, có tham gia cuộc họp HĐQT nhưng cho rằng, đó là việc làm thường xuyên, không vi phạm pháp luật, không gây thiệt hại cho Ngân hàng ACB.
HĐXX xét thấy, theo Luật Các tổ chức tín dụng, ngân hàng không được phép kinh doanh hoạt động nào khác ngoài những hoạt động của ngân hàng được giấy phép.
Việc thực hiện ủy thác gửi tiền trước Luật Các tổ chức tín dụng 2010 có hiệu lực, việc ủy thác phải thực hiện theo Quyết định 742 của Ngân hàng Nhà nước, nội dung chỉ quy định về ủy thác, ủy thác cho vay không có nội dung về ủy thác cho nhân viên đi gửi tiền.
Như vậy, trước 2011, việc ủy thác gửi tiền cũng không đúng pháp luật.
HĐXX khẳng định, việc thực hiện ủy thác gửi tiền trước khi Luật Các TCTD 2010 có hiệu lực là không đúng pháp luật, điều đó có nghĩa việc HĐQT ban hành Nghị quyết là hoàn toàn sai, đặc biệt khi Luật Các TCTD 2010 có hiệu lực, thì việc tuân thủ của các TCTD càng phải thực hiện nghiêm túc hơn nữa. Sau khi luật mới có hiệu lực, Ban lãnh đạo ACB đã họp và rút ủy thác tiền gửi USD, nhưng vẫn gửi tiền VND, chứng tỏ Ban lãnh đạo ACB biết việc ủy thác phải có hướng dẫn nhưng vẫn thực hiện. Do đó, các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự.
Bị cáo Phạm Trung Cang, đã từ nhiệm thường trực HĐQT ACB từ 30/12/2012 nhưng vẫn giữ một số chức vụ tại ACB, tham gia họp mang tính chất điều hành ở ACB, vẫn ký cho cá nhân gửi tiền. Do đó, vẫn phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình
Bị cáo Huỳnh Quang Tuấn, là thành viên HĐQT ACB từ tháng 8/2011, có tham gia cuộc họp về ủy thác gửi tiền và đồng tình với chủ trương này, nên phải chịu trách nhiệm về hành vi vi phạm như các bị cáo khác.
Việc luật sư và ACB cho rằng, ACB không có thiệt hại do Vietinbank phải trả tiền chứ không phải trách nhiệm Huyền Như. HĐXX nhận thấy, Như lợi dụng việc ACB và cá nhân của ACB không quan tâm đến thẻ tiết kiệm Như đã làm thẻ tiết kiệm và cầm cố rút tiền. Một số hợp đồng Như đã lợi dụng làm giả toàn bộ hợp đồng, rút tiền ra từ sự thiếu trách nhiệm của một số cá nhân ACB.
Do đó, dù Vietinbank hay Huyền Như phải chịu trách nhiệm, thì hiện tại ACB vẫn chưa thu hồi được số tiền. Tại phiên tòa, lời khai của Huỳnh Thị Bảo Ngọc, Trưởng phòng và Nguyễn Văn Hòa, Kế toán trưởng ACB cho thấy, hợp đồng ủy thác cho cá nhân được thanh lý ngay trong ngày để kết toán tiền. Do đó, thiệt hại phát sinh ngay từ thời điểm ACB chuyển tiền sang tài khoản các nhân viên nêu trên.
Từ hành vi Cố ý làm trái dẫn đến hậu quả ACB mất số tiền hơn 718 tỷ đồng, HĐXX thấy có cơ sở các bị cáo có hành vi thống nhất ban hành chủ trương ủy thác cho nhân viên gửi tiền, làm trái Điều 106 Luật Các TCTD 2010.
Viểm Kiểm sát truy tố là có căn cứ, đúng pháp luật.
Việc ACB ủy thác cho 19 nhân viên gửi tiền vào Vietinbank, có lãi suất chênh lệch ngoài hợp đồng là vi phạm quy định của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất huy động không quá 14%/năm.
Về trách nhiệm dân sự, số tiền 718 tỷ đồng được giải quyết trong vụ án Huỳnh Thị Huyền Như nên HĐXX không xem xét.
Huỳnh Thị Bảo Ngọc được giao nhiệm vụ đại diện cho ACB giao dịch, liên hệ với Như để mở tài khoản cho 19 nhân viên. Ngọc thỏa thuận về lãi suất tiền gửi, vượt trần, điều hành nhân viên mở tài khoản, chuyển tiền sai quy định của ngân hàng, tạo điều kiện cho Huyền Như chiếm đoạt. Ngọc được hưởng lợi 3 tỷ đồng. HĐXX xét thấy, Ngọc có dấu hiệu đồng phạm với Như, cần phải khởi tố, đề nghị Viện Kiểm sát, cơ quan điều tra làm rõ hành vi của Ngọc để xử lý theo quy định pháp luật.
9h45
Căn cứ vào các tài liệu, lời khai đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) xét thấy:
Về hành vi kinh doanh trái phép, mua bán cổ phiếu của doanh nghiệp, ngân hàng, Nguyễn Đức Kiên thông qua 6 công ty kinh doanh trái phép hơn 21 nghìn tỷ đồng.
HĐXX xét thấy hành vi mua cổ phiếu của Nguyễn Đức Kiên đều nhằm mục đích sinh lời phải đăng ký kinh doanh. Doanh nghiệp được tự do kinh doanh ngành nghề pháp luật không cấm, nhưng có nghĩa vụ hoạt động kinh doanh theo đúng ngành nghề trong Giấy Chứng nhận đăng ký kinh doanh (ĐKKD).
Giấy ĐKKD của các công ty nói trên đều không có nội dung đầu tư mua bán cổ phiếu, nhưng việc kinh doanh mua bán cổ phiếu của Nguyễn Đức Kiên không đúng với Giấy ĐKKD. Các công ty này không thực hiện hành vi kinh doanh nào khác ngoài việc mua bán cổ phiếu. Như vậy, Nguyễn Đức Kiên thành lập các công ty này chỉ nhằm mục đích phát hành trái phiếu, mua bán cổ phiếu.
Theo quy định về ĐKKD, thì Nguyễn Đức Kiên đã không kê khai ngành nghề kinh doanh cổ phiếu, không thực hiện đúng nội dung trong Giấy ĐKKD, không đăng ký bổ sung ngành nghề. Hành vi kinh doanh dưới hình thức mua cổ phiếu, góp vốn vi phạm quy định tại điều 159 BLHS.
HĐXX thấy việc phát hành trái phiếu của các công ty của Nguyễn Đức Kiên đều có dấu hiệu vi phạm pháp luật, có sự giúp sức của ACB, Vietbank. Đề nghị cơ quan điều tra làm rõ nếu có dấu hiệu phạm tội cần phải khởi tố vụ án hình sự.
Về hành vi kinh doanh vàng qua Công ty B&B:
Tại phiên tòa, NHNN cho biết, kinh doanh vàng giá vàng trước 2011 chịu sự điều chỉnh Nghị định 174/1999 đối với vàng vật chất, và QĐ 03/2006 về vàng trên tài khoản nước ngoài.
Theo đó, việc kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài là hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài với hình thức giao dịch theo thông lệ quốc tế.
Trạng thái vàng là số dư vàng trên tài khoản của tổ chức tín dụng (TCTD). Giá vàng là giá mua vào khi mở cửa của TCTD và doanh nghiệp kinh doanh vàng.
Kinh doanh giá vàng và trạng thái vàng về bản chất là giống nhau nên phải chịu sự điều chỉnh Quyết định 03.
HĐXX thấy, việc thực hiện ký lệnh mua theo mẫu của ông Trung là hình thức, còn Kiên giữ vai trò quyết định trong việc kinh doanh này, nên lời nại ra của bị cáo Kiên rằng nếu có vi phạm thì trách nhiệm thuộc về ông Trung là không có căn cứ chấp nhận.
Kinh doanh vàng, giá vàng, vàng trạng thái đều là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, phải có giấy phép ĐKKD nên lập luận của bị cáo không có căn cứ chấp nhận.
HĐXX đủ căn cứ kết luận bị cáo phạm tội Kinh doanh trái phép. Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 159 BLHS, Nguyễn Đức Kiên là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội, tại phiên tòa không thành khẩn nhận tội nên cần phải xử phạt nghiêm khắc.
Về hành vi trốn thuế:
Bị cáo Kiên cho rằng, mình không phạm tội, ký hợp đồng chỉ là dạy cho em gái kinh doanh.
Bà Đặng Ngọc Lan (vợ Kiên) khai không biết hoạt động, thời gian đó nghỉ sinh con, Kiên đưa cho thì ký, hoàn toàn tin tưởng Kiên.
Bà Nguyễn Thúy Hương (em gái Kiên) khai có tham gia góp vốn vào Công ty B&B, không am hiểu kinh doanh tài chính, Kiên bảo ký thì ký, hoàn toàn tin tưởng. Số tiền kinh doanh được lại đưa cho Kiên kinh doanh tiếp.
HĐXX xét thấy, hợp đồng ủy thác đầu tư để kinh doanh phải ký quỹ, nhưng bà Hương không có khoản nào ký quỹ, không có bất cứ hoạt động nào trong kinh doanh. Toàn bộ do Nguyễn Đức Kiên điều hành, lợi nhuận đã chuyển cho Kiên kinh doanh tiếp.
Lời khai của Nguyễn Đức Kiên rằng dạy em gái kinh doanh nhưng không có động tác nào hướng dẫn là không có căn cứ chấp nhận.
Hợp đồng này là không hợp pháp, Công ty B&B không có ngành nghề nhận ủy thác đầu tư kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài. Hợp đồng này là hợp đồng không nhắm chuyển toàn bộ lợi nhuận sang cho cá nhân Nguyễn Thúy Hương. Thực chất người thực hiện toàn bộ hoạt động là Kiên.
Tại phiên tòa bị cáo và bà Lan khai, hàng năm Chi cục Thuế đều kiểm tra không có sai sót gì, đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ thuế.
Việc Công ty B&B không kê khai khoản thuế này là vi phạm pháp luật về thuế, DN phải khai thuế chính xác, trung thực đúng thời hạn và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Chi cụ Thuế Đống Đa cho biết, năm 2009 – 2010 đã đối chiếu kiểm tra hồ sơ nộp thuế của Công ty B&B. Kết quả, Công ty này bị truy thu và phạt năm 2010 là 444 triệu đồng. Như vậy, số thuế còn lại là số thuế không kê khai từ việc kinh doanh vàng với ACB.
Kết luận giám định tư pháp cho thấy, số thuế phát sinh từ hợp đồng với ACB là 25 tỷ đồng. Do đó, có đủ căn cứ kết luận Nguyễn Đức Kiên phạm tội Trốn thuế theo quy định khoản 3 điều 161 BLHS. Viện kiểm sát truy tố là đúng người đúng tội.
Bà Đặng Ngọc Lan, bà Nguyễn Thúy Hương có hành vi giúp sức tích cực cho Nguyễn Đức Kiên. Dù là người thân trong gia đình Nguyễn Đức Kiên, nhưng xét thấy cần thiết kiến nghị cơ quan tố tụng tiến hành điều tra làm rõ hành vi xử lý theo pháp luật.
Về dân sự, buộc Công ty B&B truy nộp 25 tỷ đồng thuế TNDN đã trốn năm 2009 cho Chi cục Thuế Đống Đa.
Về hình phạt bổ sung, phạt tiền 3 lần số tiền thuế đã trốn với Nguyễn Đức Kiên là 75 tỷ đồng để sung công quỹ Nhà nước.
9h30,
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát: Tại phiên tòa, các bị cáo cơ bản không thừa nhận phạm tội.
Bị cáo Nguyễn Đức Kiên thừa nhận hành vi mà cáo trạng đã nêu, có tham gia các cuộc họp, nhưng không thừa nhận phạm tội.
Bị cáo Yến, Thanh thừa nhận hành vi, nhưng làm do chỉ đạo của bị cáo Kiên.
Các bị cáo Lý Xuân Hải, Lê Vũ Kỳ, Trịnh Kim Quang, Phạm Trung Cang, Huỳnh Quang Tuấn có tham gia các cuộc họp HĐQT, đồng ý với chủ trương của HĐQT nhưng không có hành vi cố ý làm trái, vì theo nhận thức của các bị cáo đó là hành vi thường xuyên của ngân hàng, không trái pháp luật.
Bị cáo Nguyễn Đức Kiên có hành vi kinh doanh trái phép với tổng số tiền hơn 21.000 tỷ đồng.
Ký hợp đồng ủy thác để chuyển toàn bộ lợi nhuận từ việc kinh doanh vàng cho bà Hương để trốn 25 tỷ đồng trốn thuế.
Chỉ đạo Thanh, Yến ký hợp đồng bán cổ phiếu cho Công ty TNHH MTV Thép Hòa Phát dù cổ phiếu đã bị thế chấp tại ngân hàng lấy 264 tỷ đồng.
Thống nhất việc ban hành chủ trương đầu tư cổ phiếu ACB trái quy định gây thiệt hại 678 tỷ đồng cho Ngân hàng ACB.
Thống nhất với việc ban hành chủ trương ủy thác cho nhân viên đi gửi tiền tại ngân hàng khác, dẫn đến thiệt hại 718 tỷ đồng cho Ngân hàng ACB.
Các bị cáo Lý Xuân Hải, Lê Vũ Kỳ, Trịnh Kim Quang, Phạm Trung Cang, Trịnh Quang Tuấn phạm tội Cố ý làm trái cùng với Nguyễn Đức Kiên.
Do đó đại diện Viện Kiểm sát Nhân dân TP. Hà Nội giữ nguyên quan điểm truy tố của Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, truy tố các bị cáo với 4 tội danh: Kinh doanh trái phép, Trốn thuế, Lừa đảo, Cố ý làm trái.
Ý kiến bào chữa của các luật sư: Khi ký hợp đồng mua bán, Thép Hòa Phát dã biết việc cổ phiếu thế chấp.
Bị cáo Thanh, Yến là người làm công ăn lương, chỉ có lỗi vô ý, tin tưởng Kiên chỉ đạo, không có ý thức chiếm đoạt, không được hưởng lợi.
Luật sư cho rằng, Kiên không phạm tội vì không có bất cứ hành vi nào của Điều 1065 Luật Quản lý thuế. Văn bản của Tổng cục thuế chỉ cố tính chất tham khảo.
Về kinh doanh trái phép, bị cáo không phạm tội vì việc mua cổ phiếu, góp vốn của 5 doanh nghiệp là hoạt động đầu tư, là hình thức đầu tư gián tiếp, không phải kinh doanh tài chính.
Hành vi kinh doanh vàng tại Công ty Thiên Nam là kinh doanh sản phẩm tài chính phái sinh từ việc kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài, không kinh doanh vàng vật chất mà kinh doanh giá vàng.
Về Cố ý làm trái, các luật sư có quan điểm, các bị cáo không phạm tội trong việc ủy thác cho nhân viên đi gửi tiền. Vì khi ban hành không trái với luật hiện hành, đã thực hiện từ 2005 mà không bị NHNN phạt, nhắc nhở. Khi luật Các tổ chức tín dụng 2010 có hiệu lực cũng không phạm luật.
Các luật sư bào chữa ACB không có thiệt hại vì tiền do Vietinbank phải trả lại cho ACB. ACB chỉ có sơ suất nhỏ. ACB không yêu cầu các bị cáo bồi thường, đã thu được khoảng 1.800 tỷ đồng lãi, trừ đi hơn 718 tỷ đồng thì vẫn lãi không thiệt hại.
Bị cáo Cang đã từ nhiệm thành viên HĐQT từ 12/2010 để sang Eximbank, tuy có ký nhưng không biết về việc thực hiện.
Bị cáo Huỳnh Quang Tuấn tham gia họp HĐQT nhưng là khách mời không được biểu quyết, sau có tham gia HĐQT thì việc ủy thác đã được thực hiện.
ACB và luật sư cho rằng, đã làm đúng quy định khi gửi tiền, tiền đã vào Vietinbank, hợp đồng là thật, Huyền Như chiếm đoạt tiền của Vietinbank.
Vietinbank và luật sư bào chữa của mình cho Vietinbank, Huyền Như cho ý thức chiếm đoạt tiền của các nhân viên ACB từ trước, các nhân viên của ACB đã không thực hiện đúng các quy định khi gửi tiền.
Về hành vi đầu tư cổ phiếu ACB: HĐQT chỉ đồng ý cấp hạn mức đầu tư một số cổ phiếu, không chỉ định mua cổ phiếu ACB. Cho vay liên ngân hàng là hoạt động bình thường, không liên quan đến mua cổ phiếu ACB. Việc mua cổ phiếu là do ACI và ACI Hà Nội thực hiện và chịu trách nhiệm lỗ, lãi.