Tín dụng năm 2024 tăng 13-14%, triển vọng lợi nhuận vẫn lạc quan
Trong báo cáo ngành ngân hàng vừa công bố, chuyên gia phân tích Công ty chứng khoán MBS cho rằng, triển vọng lợi nhuận sau thuế của ngành ngân hàng năm 2024 vẫn khả quan dù áp lực trích lập dự phòng vẫn còn lớn.
Về tín dụng, các chuyên gia kỳ vọng tăng trưởng tín dụng năm 2024 sẽ đạt 13%-14% trong 2024 nhờ tăng trưởng GDP đang thể hiện xu hướng tích cực, lãi suất cho vay giảm mạnh. Bên cạnh đó, Chính phủ ban hành những chính sách hỗ trợ như Nghị định 08/2023/NĐ-CP, 10/2023/NĐ-CP với mục tiêu tháo gỡ vướng mắc pháp lý các dự án bất động sản và phát triển nhà ở xã hội góp phần thúc đẩy tín dụng cho thị trường này.
Các hoạt động cho vay bán lẻ như cho vay tiêu dùng, mua nhà và mua xe sẽ được kích cầu mạnh mẽ trong môi trường lãi suất thấp.
“Chúng tôi cho rằng các doanh nghiệp bất động sản sẽ tiến hành giảm giá các sản phẩm nhằm tiếp cận gần hơn với người mua thay vì ưu tiên lợi nhuận nhằm khơi thông dòng tiền khi mà các chính sách đang nới lỏng hơn trước. Điều này giúp kích thích tín dụng cho ngành bất động sản. Tương tự, hoạt động cho vay tiêu dùng và mua ô tô cũng sẽ có chính sách tương tự nhằm tận dụng quãng thời gian lãi suất thấp được duy trì. Chúng tôi kỳ vọng kịch bản này sẽ bắt đầu từ đầu qúy II/2024”, chuyên gia phân tích MBS nhận định.
Tín dụng dành cho nhóm khách hàng doanh nghiệp (KHDN) vẫn dẫn dắt trong 6-9 tháng tới. Các ngân hàng có mức tăng trưởng cao hơn trung bình ngành như BIDV, HDBank, MB, Techcombank, VPBank là nhờ danh mục KHDN lớn, nhóm khách hàng có nhu cầu tín dụng cao hơn so với nhóm bán lẻ. Trong khi đó, những ngân hàng có quy mô nhỏ và chuyên cho vay bán lẻ bị ảnh hưởng mạnh bởi tác động kép từ nhu cầu tín dụng yếu và chất lượng tài sản suy giảm mạnh hơn chủ động giảm tăng trưởng và tập trung xử lý nợ xấu. Xu hướng này vẫn sẽ tiếp tục diễn ra trong nửa đầu năm 2024 khi nhu cầu tín dụng bán lẻ vẫn chưa thể phục hồi. Dòng tiền trả nợ yếu khiến nhóm khách hàng này khó tiếp cận với các chương trình giảm lãi suất của các NHTM, từ đó khiến dòng vốn vẫn sẽ tìm đến các doanh nghiệp lớn với tình hình tài chính khả quan hơn.
Đà suy giảm của NIM được cải thiện chính sách thắt chặt tiền tệ bắt đầu từ quý III/2022 đã khiến lãi suất huy động tăng mạnh và bắt đầu phản ánh lên chi phí vốn của các ngân hàng trong nửa đầu năm 2023 khiến NIM suy giảm mạnh. Tuy nhiên, đà giảm của NIM đã có sự cải thiện trong quý III/2023.
Trong bối cảnh các giải pháp của Chính phủ và NHNN đều xoay quanh việc tháo gỡ khó khăn dòng tiền cho doanh nghiệp giúp nền kinh tế tiếp cận được vốn vay tín dụng, mặt bằng lãi suất thấp là yếu tố bắt buộc phải được duy trì trong ít nhất 6-9 tháng tới. Đây sẽ là cơ hội cho các ngân hàng có thể gia tăng NIM. Tuy nhiên, với chủ trương hỗ trợ nền kinh tế, việc giảm lãi suất cho vay đầu ra cũng sẽ là yếu tố then chốt để giúp các NHTM có thể nhận được hạn mức tín dụng cao từ NHNN và gia tăng cạnh tranh trong bối cảnh nhu cầu tín dụng chưa có dấu hiệu phục hồi rõ ràng. Do đó, NIM năm 2024 của hầu hết các ngân hàng chỉ tăng nhẹ so với 2023 và sẽ không cao như cả năm 2022.
Rủi ro nợ xấu tiếp tục gia tăng
Theo MBS, rủi ro suy giảm chất lượng tài sản vẫn lớn trong năm 2024. Tỷ lệ nợ xấu (NPL) toàn ngành tại cuối quý III/2023 đạt 2.2%, tăng 64 điểm cơ bản so với 2022, và là mức cao nhất từ năm 2015.
Hầu như tất cả các ngân hàng đều tiếp tục ghi nhận tỷ lệ nợ xấu (NPL) gia tăng tại Q3/23 so với đầu năm và các quý liền trước. Trung bình, các NHTMCP Nhà nước có mức tăng 0.4% so với đầu năm, con số này ở nhóm ngân hàng TMCP là 0.7% (loại trừ NCB). Song song với đó, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) cũng suy giảm xuống mức thấp nhất kể từ cuối năm 2020, ghi nhận 93.8% (2022: 136.9%).
Thông tư 02/2023/TT-NHNN về cơ cấu lại thời hạn trả nợ và giãn nợ đã giúp tỷ lệ nợ xấu và sự sụt giảm bao phủ nợ xấu. Nợ xấu toàn ngành tăng mạnh từ 1.4% cuối năm 2022 lên 2.1% cuối quý II/2023 nhưng chỉ tăng 10 điểm cơ bản trong quý III/2023. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm hơn 21% trong 6 tháng đầu năm 2023 nhưng chỉ giảm 5.8% trong quý III/2023.
Các chuyên gia phân tích kỳ vọng nợ xấu toàn ngành sẽ tăng nhẹ 10-20 điểm cơ bản và đạt đỉnh trong quý IV/2023. Ngoài ra, việc sử dụng một lượng lớn trích lập dự phòng trong 9 tháng đầu năm 2023 để xử lý nợ xấu cũng góp phần giúp nợ xấu các ngân hàng suy giảm.
Áp lực trích lập dự phòng được dự báo vẫn sẽ lớn trong năm 2024 do dư địa trích lập của các ngân hàng sẽ không còn nhiều khi kết quả kinh doanh cả năm 2023 được dự báo sẽ kém khả quan. Khi hiệu lực của TT02/2023/NHNN-TT hết hạn vào 30/06/2024 (đang được NHNN cân nhắc gia hạn) áp lực trích lập cho các khoản nợ tái cơ cấu hoặc các khoản nợ xấu không được tái cơ cấu sẽ gia tăng.
Tuy nhiên, áp lực này sẽ có sự phân hóa rõ nét giữa các ngân hàng. Những ngân hàng đã gia tăng trích lập lớn trong năm 2023 và đưa chất lượng tài sản về mức thấp có thể sẽ có nhiều dư địa để xử lý hơn, và do đó sẽ có được lợi thế tăng trưởng lợi nhuận cao hơn.