Cam kết đưa mức phát thải ròng về 0 vào năm 2050 của Việt Nam là cơ hội lớn cho phát triển dự án năng lượng tái tạo. Ảnh: Đức Thanh
Cần 368 tỷ USD cho mục tiêu phát thải ròng bằng “0”
Tại Hội nghị lần thứ 26 Các bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26) diễn ra tháng 11/2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã đưa ra cam kết mạnh mẽ về việc Việt Nam sẽ đưa mức phát thải ròng về “0” vào năm 2050 loại bỏ điện than vào năm 2040.
“Điều này đã đánh dấu một bước ngoặt trong con đường phát triển bền vững của Việt Nam”, bà Kanni Wignaraja, Trợ lý Tổng thư ký Liên Hợp Quốc và Giám đốc UNDP khu vực châu Á - Thái Bình Dương nhấn mạnh quan điểm này tại Tọa đàm Quản trị và tài chính cho chuyển dịch năng lượng công bằng do Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP) và Báo Đầu tư đồng tổ chức cuối tuần qua.
“UNDP đang phối hợp chặt chẽ với Chính phủ nhằm xây dựng các kế hoạch và chiến lược quốc gia quan trọng với các cam kết COP26”, bà Kanni Wignaraja nói.
Theo ông Lê Trọng Minh, Tổng biên tập Báo Đầu tư, các mục tiêu cam kết của Việt Nam tại COP26 được thể hiện chi tiết tại Kế hoạch Hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, trong đó, các thách thức về tài chính để triển khai các nhiệm vụ, hoạt động là vô cùng lớn.
Theo ước tính của Ngân hàng Thế giới (WB) tại Báo cáo Quốc gia về khí hậu và phát triển cho Việt Nam vừa công bố (CCDR), để thực hiện lộ trình tăng trưởng xanh, thích ứng với khí hậu và phát thải ròng bằng “0”, dự kiến Việt Nam sẽ cần đầu tư thêm khoảng 6,8% GDP, tương đương 368 tỷ USD từ nay đến năm 2040. Nhu cầu đầu tư sẽ tập trung lớn vào năng lượng, giao thông, nông nghiệp và công nghiệp.
Bà Caitlin Wiesen, Đại diện thường trú UNDP đánh giá, Việt Nam đang phải đối mặt với động lực duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, trong khi đồng thời phải đáp ứng các cam kết chuyển đổi khí hậu và năng lượng theo những cách thức phù hợp.
“Nhu cầu về năng lượng cần thiết cho tăng trưởng kinh tế sẽ tăng lên đáng kể. Là một trung tâm sản xuất, các doanh nghiệp và lĩnh vực của Việt Nam sẽ tiếp tục có nhu cầu năng lượng, trong khi đó vẫn phải thực hiện việc chuyển đổi từ năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo”, bà Caitlin Wiesen nói.
Do đó, có 3 thách thức mà Việt Nam phải giải quyết, gồm đầu tư vào sản xuất điện tái tạo; đầu tư vào hiệu quả năng lượng và chuyển đổi năng lượng của giao thông, công nghiệp, xây dựng và nông nghiệp; bảo vệ người lao động và những người dễ bị tổn thương.
Dưới góc nhìn tích cực, ông Phạm Xuân Hòe cho rằng, cam kết mạnh mẽ này của Chính phủ sẽ mở ra cơ hội “khổng lồ” cho đầu tư xanh và thúc đẩy thị trường tài chính xanh của Việt Nam phát triển. Vì muốn có được năng lượng sạch, thì rất cần phải có nguồn tài chính xanh lớn để đầu tư.
Ngày càng nhiều ngân hàng tại Việt Nam quan tâm tới tín dụng xanh và trái phiếu xanh. Theo ông Hòe, tổng dư nợ tín dụng xanh của Việt Nam hiện mới chiếm 4-5% tổng dư nợ cho vay của nền kinh tế, song tốc độ tăng trưởng lên tới gần 30%.
Báo cáo mà Climate Bonds Initiative và Ngân hàng HSBC công bố hồi tháng 6/2022 cũng cho thấy, tại Việt Nam, tổng giá trị thị trường tín dụng xanh, trái phiếu xanh năm 2021 đạt 1,5 tỷ USD, gần gấp 5 lần mức 0,3 tỷ USD trong năm 2020 và duy trì tăng trưởng ổn định xuyên suốt 3 năm liền.
Phần lớn trái phiếu và khoản vay xanh ở Việt Nam trong năm 2021 đến từ ngành vận tải và năng lượng. Việt Nam là nguồn phát hành nợ xanh lớn thứ hai trong ASEAN, đạt 1 tỷ USD, chỉ sau Singapore.
Những năm qua, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Bộ Tài chính cũng đã có bước đi tích cực trong tiến trình từng bước xanh hóa hệ thống ngân hàng, xanh hóa thị trường vốn. Bằng việc ban hành Đề án Phát triển ngân hàng xanh (Quyết định 1604/QĐ-NHNN), Chỉ thị 03/CT của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về tín dụng xanh, thống kê danh mục cho vay xanh của các tổ chức tín dụng, Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng đã có thử nghiệm mô hình stress test để đưa ra kịch bản đánh giá tác động của biến đổi khí hậu lên danh mục cho vay của một số ngân hàng thương mại lớn…
Tuy nhiên, ông Hòe cũng chỉ ra 3 thách thức lớn đối với tài chính xanh Việt Nam. Đó là thiếu nguồn vốn, chính sách hỗ trợ đối với tài chính xanh chưa hoàn chỉnh và nhận thức, thói quen tiêu dùng xanh chưa cao.
Chia sẻ quan điểm này, TS. Thomas Marois và GS. Uli Volz của Trường SOAS, Đại học London cho rằng, mặc dù tài chính tư nhân đóng góp lớn cho quá trình phát triển kinh tế mỗi quốc gia, nhưng tài chính tư nhân hoạt động độc lập có nhiều hạn chế, như thiếu nguồn vốn trung, dài hạn, thiếu các khoản vay chi phí hợp lý dành cho các công ty đổi mới sáng tạo nhỏ mới thành lập; không sẵn sàng cung cấp tài chính cho các hoạt động mà lợi nhuận chưa chắc chắn…
Tài chính xanh cần chính sách nhất quán và ổn định
Cần chỉ đạo, yêu cầu các tập đoàn, doanh nghiệp, ngân hàng nhà nước và khuyến khích các tập đoàn, ngân hàng tư nhân cam kết chuyển đổi danh mục đầu tư/cho vay để đạt mục tiêu phát thải bằng 0 vào năm 2050.
Ông Phạm Xuân Hòe, nguyên Phó viện trưởng, Viện Chiến lược ngân hàng
Theo các chuyên gia tại Tọa đàm, tài chính là yếu tố quan trọng trong việc đạt được chuyển đổi năng lượng công bằng. Trong đó, khả năng sinh lời và khả năng dự báo là những yếu tố then chốt trong tài chính. Thiếu 2 yếu tố này sẽ hạn chế nguồn tài chính cho các dự án năng lượng tái tạo, chứ không phải ngược lại.
Một số vấn đề về quản trị như thị trường minh bạch, cạnh tranh, thỏa thuận mua bán điện trực tiếp, môi trường pháp lý, quy định về xây dựng, truyền tải và phân phối cho các nhà sản xuất đóng vai trò quan trọng trong huy động tài chính. Khi các công cụ tăng tốc quản trị được đưa ra, tài chính sẽ đến từ đầu tư công thông qua thuế, phát hành trái phiếu trong nước; nguồn tài chính tư nhân quốc tế; nguồn tài chính từ khu vực tư nhân trong nước.
Từ góc độ là một doanh nghiệp tư nhân đang đầu tư rất lớn vào các dự án năng lượng tái tạo, bà Phạm Nguyễn Ngọc Thương, Phó tổng giám đốc, kiêm Giám đốc tài chính CTCP BCG Energy cho rằng, có nhiều cơ hội khi đầu tư vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, song cũng có không ít thách thức. “Chúng tôi phải dùng nguồn vốn chủ sở hữu, huy động vốn từ cả trong và ngoài nước để thực hiện các dự án này”, bà Thương cho hay.
Nêu vấn đề liên quan đến việc vay vốn từ hợp đồng mua bán điện, bà Thương cho biết, trong các hợp đồng mua bán điện hiện nay không có điều khoản nào bảo vệ các nhà phát triển như BCG Energy. “Chúng tôi mong muốn hợp tác chặt chẽ hơn với các cơ quan quản lý để xây dựng nền tảng tốt cho nhà đầu tư tư nhân phát triển các dự án năng lượng tái tạo”, bà Thương nói.
Để thúc đẩy tín dụng xanh, ông Phạm Xuân Hòe cho rằng, Chính phủ cần nhanh chóng ban hành Danh mục phân loại xanh để có cơ sở định hướng, quản lý, khuyến khích phát triển năng lượng xanh, năng lượng tái tạo.
Bên cạnh đó, Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính chỉ đạo các ngân hàng xây dựng chương trình tín dụng xanh, trái phiếu xanh cho năng lượng xanh, năng lượng tái tạo.
Các cơ quan Chính phủ hỗ trợ và hướng dẫn khu vực tư nhân tiếp cận, huy động, sử dụng nguồn tài chính xanh quốc tế, kể cả nguồn ưu đãi quốc tế. Các chính sách nhất quán và ổn định hỗ trợ phát triển năng lượng xanh sạch, bền vững.
Trong công tác đấu thầu, mua sắm chi tiêu công xanh cũng cần được lồng ghép vào chính sách và thực thi ở các bộ, ngành và địa phương.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính cần sử dụng tốt các công cụ của chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ để thu hút dòng tài chính xanh cho tăng trưởng xanh, như thuế, phí, lãi suất, giá FIT, dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, tái chiết khấu; dành ưu tiên về hạn mức vay nợ nước ngoài dành cho khu vực tư nhân để gia tăng nguồn vốn xanh từ nước ngoài đầu tư cho chuyển dịch năng lượng xanh…
“Cần chỉ đạo, yêu cầu các tập đoàn, doanh nghiệp, ngân hàng nhà nước và khuyến khích các tập đoàn, ngân hàng tư nhân cam kết chuyển đổi danh mục đầu tư/cho vay để đạt mục tiêu phát thải bằng 0 vào năm 2050”, ông Hòe kiến nghị.
Theo TS. Thomas Marois và GS. Uli Volz, Việt Nam cần phát huy vai trò của ngân hàng phát triển công xanh trong việc huy động vốn tư nhân vào đầu tư xanh, phát triển bền vững. “Ngân hàng phát triển công có thể tận dụng nguồn vốn tư nhân thông qua các đợt phát hành trái phiếu để tăng cường huy động nguồn lực trong nước”, hai chuyên gia này khuyến nghị.