Thứ trưởng Nguyễn Hồng Trường: Trong quá tình xây dựng các dự án BOT, Bộ GTVT cũng như Bộ Tài chính đã duyệt phương án tài chính, có lộ trình tăng phí (3 năm dựa trên mức tăng CPI cả nước), cũng như lộ trình hoàn vốn để bảo đảm lợi ích các bên. Các dự án đều có quá trình chuẩn bị kỹ, lộ trình rõ ràng.
Để giải quyết thấu đáo, bảo đảm sức chịu đựng của người dân, Bộ GTVT đã xem xét tổng thể.
Đối với các trạm thu phí trên cao tốc, hầu hết là đang thu với mức 1.500 đồng/km, trừ cao tốc Hà Nội-Hải Phòng. Tổng công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam cũng vừa đề xuất tăng phí lên 2.000 đồng/km trên cao tốc Cầu Giẽ-Ninh Bình, nhưng Bộ tạm thời chưa duyệt, còn tính toán thời điểm tăng phù hợp.
Còn các trạm BOT trên các tuyến quốc lộ thì thu theo phương án tài chính đã được phê duyệt, phổ biến từ 30.000-35.000 đồng/lượt xe tiêu chuẩn, một số trạm là 45.000 đồng/lượt xe tiêu chuẩn. Bộ cũng đã tính toán kỹ đến yếu tố đầu vào đầu ra, bảo đảm hoạt động đi lại của người dân.
Hiện nhiều trạm BOT đến thời điểm tăng phí theo lộ trình, nhưng Bộ GTVT đang xem xét tính toán lưu lượng phương tiện, cũng như sức chịu đựng của người dân vùng dự án để xem xét lộ trình tăng hợp lý.
Để giảm thiểu thiệt hại cho doanh nghiệp, Bộ GTVT đã đề nghị nhà đầu tư BOT tăng cường vé tháng. Với loại vé này doanh nghiệp đã được giảm 15-20%, với người dân vùng quanh trạm BOT thì xem xét giảm cả giá vé tháng, ví dụ trạm BOT Hòa Bình, Hạc Trì.
Lộ trình tăng phí theo chỉ số CPI cụ thể như thế nào, thưa ông?
Thứ trưởng Nguyễn Hồng Trường: Trong quá tình xây dựng dự án BOT, Bộ GTVT và Bộ Tài chính đã duyệt phương án tài chính, có lộ trình tăng phí theo CPI cũng như lộ trình hoàn vốn để bảo đảm lợi ích các bên. Các dự án này có quá trình chuẩn bị kỹ, có lộ trình rõ ràng. Trong quá trình xây dựng trạm giai đoạn 2011-2015, sau 3 năm sẽ xem xét tăng phí, nay đã đến giai đoạn các trạm tiến hành tăng phí theo lộ trình.
Trong lộ trình, cứ 3 năm một tính mức độ tăng trưởng trượt giá như thế nào để đưa về mức phí BOT cho phù hợp, tăng giảm điều chỉnh theo CPI bình quân của 3 năm.
Giai đoạn từ 2010-2013, gần như không tăng một chút nào, thậm chí năm 2010 có những trạm chỉ 10.000 đồng/lượt, sau đó phải điều chỉnh theo cơ chế thị trường.
Nhưng trên nhiều tuyến đường khoảng cách các trạm BOT không bảo đảm tối thiểu 70 km?
Thứ trưởng Nguyễn Hồng Trường: Phần lớn các trạm BOT trên cùng một tuyến đường đều bảo đảm khoảng cách tối thiểu là 70 km/trạm, nhưng cũng có một số trạm có khoảng cách 50-60 km vì không có vị trí đặt trạm phù hợp.
Vừa qua, Bộ GTVT đã rà soát và di dời một số trạm để phù hợp với quy định. Chúng tôi sẽ tiếp tục rà soát để có hướng xử lý phù hợp với toàn bộ trạm BOT trên cả nước.
Bộ GTVT có tính đến phương án mua lại một số trạm BOT trên quốc lộ để giảm gánh nặng cho người dân, doanh nghiệp không, thưa ông?
Thứ trưởng Nguyễn Hồng Trường: Chúng ta kêu gọi dự án BOT, huy động nguồn vốn xã hội là do ngân sách Nhà nước khó khăn, nếu có tiền thì ngân sách Nhà nước đã đầu tư luôn rồi. Theo tính toán, khi nền kinh tế phát triển, GDP đầu người phải đạt ngưỡng trên 15.000 USD/năm thì mới có thể tính đến phương án mua lại, còn hiện chúng ta mới đạt xấp xỉ 3.000 USD/người/năm thì rất khó.
Nhiều ý kiến cho rằng, chúng ta chưa có đánh giá tác động tổng thể của các dự án BOT lên sức chịu đựng của người dân và doanh nghiệp. Ông nghĩ sao về các ý kiến này?
Thứ trưởng Nguyễn Hồng Trường: Khi xây dựng Thông tư 159 thì Bộ Tài chính đã yêu cầu, các trạm BOT phải bảo đảm khoảng cách tối thiểu 70 km/trạm là đã tính đến việc này. Nếu chúng ta giảm xuống tối thiểu 50 km/trạm thì tình hình sẽ khác ngay.
Các nước đưa ra thời gian chuẩn để thu hồi vốn đối với một trạm BOT là 20-30 năm, Việt Nam lấy mức trung bình là 25 năm. Từ mức này chúng ta sẽ xây dựng mức phí mỗi trạm trong suốt giai đoạn thu phí hoàn vốn.
Nếu so sánh với hầu hết các nước thì phí đường bộ BOT của Việt Nam rẻ nhất Đông Nam Á.