Chính sách tiền tệ theo, lạm phát mục tiêu
Ổn định lạm phát, hạn chế các tín hiệu méo mó về giá cả giúp nguồn lực phân bổ hiệu quả. Vì vậy, làm thế nào kiểm soát và duy trì được lạm phát ở mức hợp lý (lạm phát thấp và ổn định trong một biên độ nhất định) trở thành vấn đề trung tâm, là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ.
Nếu được như vậy, chính sách tiền tệ sẽ góp phần thực hiện tốt mục tiêu tăng trưởng kinh tế ít nhất là trong ngắn hạn, kể cả góp phần bảo đảm mục tiêu ổn định tỷ giá và an toàn hệ thống ngân hàng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, lợi ích ngắn hạn về giảm tỷ lệ thất nghiệp hay tăng trưởng kinh tế có thể xung đột với mục tiêu ổn định giá.
Hiệu quả của một khung khổ điều hành chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu phụ thuộc vào nhiều yếu tố, vì nó chủ yếu sử dụng dự báo lạm phát nhằm đưa ra định hướng cơ sở cho chính sách tiền tệ và vận hành chính sách một cách minh bạch để làm tăng tính trách nhiệm và khả năng giải trình.
TS. Võ Trí Thành
4 yếu tố phụ thuộc bao gồm: thứ nhất, khả năng dự báo, ứng phó và đánh giá việc điều hành theo lạm phát mục tiêu có vai trò rất quan trọng.
Thứ hai, tính độc lập của ngân hàng trung ương trong việc đặt lạm phát mục tiêu có ý nghĩa quyết định đối với việc điều hành chính sách tiền tệ.
Thứ ba, gắn với tính độc lập chính là mức độ minh bạch và khả năng giải trình về chính sách tiền tệ. Thứ tư, một hệ thống tài chính lành mạnh là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của chiến lược lạm phát mục tiêu.
Khung khổ điều hành chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu, nếu được xây dựng và vận hành đầy đủ, sẽ có không ít thuận lợi. Niềm tin của các thành viên thị trường đối với chính sách, vốn là một yếu tố có tính nền tảng, sẽ tăng.
Bên cạnh đó, do mục tiêu ưu tiên được xác định rõ ràng và trong một khung khổ rõ ràng hơn, ngân hàng trung ương sẽ chỉ phải tập trung vào nhóm nhiệm vụ, giải pháp trực tiếp và/hoặc gián tiếp liên quan đến các mục tiêu này.
Không kém phần quan trọng là các chính sách khác cũng dần thích ứng với công tác điều hành chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu, tránh gây áp lực đối với ngân hàng trung ương.
Tuy nhiên, việc điều hành chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu cũng gặp phải những khó khăn nhất định. Theo đó, việc thực hiện mục tiêu lạm phát có thể bị cản trở do các nhóm chính sách khác muốn tăng ưu tiên cho các mục tiêu khác (chẳng hạn tăng trưởng kinh tế cao, hay thay đổi tỷ giá…).
Hơn nữa, tính độc lập của ngân hàng trung ương cũng ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận thông tin, nhất là các thông tin chuyên ngành thuộc thẩm quyền của các bộ khác.
Việt Nam cần thực sự đặt mục tiêu ưu tiên về ổn định giá cả hoặc ổn định lạm phát, qua đó giúp quá trình chuẩn bị và chuyển đổi nhất quán hơn
Thực tiễn điều hành chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn 2000 - 2014 cho thấy, những giai đoạn kinh tế biến động sẽ có sự điều chỉnh chính sách khác nhau: Giai đoạn từ năm 2000 tới cuối năm 2007 với xu hướng mở rộng tiền tệ, hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu và tăng trưởng kinh tế; giai đoạn từ đầu năm 2008 - 2010 với một loạt những đảo chiều (thắt chặt rồi nới lỏng tiền tệ) nhằm ứng phó với bất ổn kinh tế vĩ mô và tác động của suy thoái kinh tế toàn cầu. Giai đoạn 2011 - 2016, tập trung vào ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát (cùng hỗ trợ tăng trưởng).
Tuy vậy, công tác điều hành chính sách tiền tệ gặp không ít khó khăn do: một là trong không ít giai đoạn, thiếu ưu tiên rõ ràng cho mục tiêu ổn định lạm phát so với các mục tiêu khác (như tăng trưởng kinh tế); hai là biến động của kinh tế thế giới và trong nước gắn với quá trình hội nhập; ba là sự phối hợp, điều phối còn bất cập với các chính sách khác.
Nghiên cứu phối hợp giữa Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và Viện Chiến lược ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước năm 2016 dựa trên mô hình kinh tế lượng vĩ mô với 2 kịch bản điều hành (hướng mục tiêu lạm phát chung hoặc lạm phát cơ bản) đều cho thấy những kết quả chung.
Việc áp dụng khuôn khổ chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu, với định hướng ổn định giá cả (giá cả chung hoặc cơ bản) đều đi kèm với mức tăng trưởng kinh tế thấp hơn. Mức tăng trưởng kinh tế thấp chủ yếu do tổng cầu được kiềm chế.
Nhìn từ góc độ điều hành của Ngân hàng Nhà nước, việc tăng M2 hay tín dụng cũng sẽ chậm hơn trong các năm. Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế thấp có thể không phải là kết quả đáng mong đợi trong giai đoạn mô phỏng 2007 - 2014.
Cần lưu ý rằng, phần đánh giá ở đây không tính đến tác động của các cải cách mà lẽ ra Việt Nam có thể thực hiện được, để tiềm năng tăng trưởng được củng cố về phía cung, thay vì phía cầu. Nếu hướng chính sách vào ổn định lạm phát trong giai đoạn này thì niềm tin của thị trường có thể ít méo mó hơn.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam có thể thực hiện các cải cách kinh tế vi mô sâu rộng hơn, thay vì chỉ tập trung điều hành tổng cầu nhằm thúc đẩy tăng trưởng. Bản thân việc điều hành tổng cầu nhằm thúc đẩy tăng trưởng cũng khá tốn kém.
Chẳng hạn, vào năm 2009, Chính phủ đã thực hiện gói kích thích tài khóa khoảng 145,6 nghìn tỷ đồng (tương đương 8,7% GDP). Ước lượng của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cho thấy, gói này chỉ giúp cho tăng trưởng GDP cao hơn khoảng 1 - 1,5 điểm phần trăm.
Việt Nam mới thỏa mãn 5/19 điều kiện
Nhìn từ góc độ chuẩn bị cho việc vận dụng khung khổ chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu, xét theo cả 4 nhóm điều kiện (hạ tầng kỹ thuật; cơ cấu kinh tế; tính độc lập của ngân hàng trung ương; mức độ lành mạnh của hệ thống tài chính) thì mức độ đáp ứng của Việt Nam đều chưa cao.
Việt Nam hiện mới chỉ thỏa mãn được 5 điều kiện trên tổng số 19 điều kiện, bao gồm: mức độ độc lập trong hoạt động điều hành; quy trình dự báo có hệ thống; dự báo theo kịch bản; mức độ đô-la hóa thấp; và nợ công trong ngưỡng an toàn (dù còn không ít lo ngại).
Kể cả với 8 điều kiện quan trọng nhất, theo đánh giá của nhóm tác giả, Việt Nam mới chỉ phần nào đạt 3 điều kiện (về quy trình dự báo có hệ thống, mô hình dự báo có điều kiện và tính độc lập trong quá trình hoạt động). Còn 5 điều kiện khác chưa đạt, đó là: cơ sở dữ liệu; độ sâu của thị trường vốn tư nhân; ít chịu nghĩa vụ tài khóa; mức độ tập trung vào lạm phát; độ chuyển tỷ giá vào lạm phát.
Trong danh mục 19 điều kiện nói chung, một số khía cạnh như chất lượng tài sản của ngân hàng, giảm tình trạng “sai lệch cơ cấu đồng tiền”..., Việt Nam có thể cải thiện trong các giai đoạn 3 - 5 năm tới. Tuy nhiên, nhiều khía cạnh có lẽ Việt Nam khó cải thiện hơn trong 5 năm tới.
Các khía cạnh này bao gồm: giảm độ mở thương mại; tăng mức vốn hóa của thị trường trái phiếu công ty. Việt Nam còn phải nỗ lực rất nhiều mới đáp ứng được các điều kiện này.
Do đó, điều quan trọng trong thời gian tới là nâng cao năng lực thể chế và năng lực điều hành cho Ngân hàng Nhà nước, bên cạnh việc cân nhắc chuyển sang một hình thức cụ thể của khung khổ chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu.
Nghiên cứu phối hợp giữa Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương và Viện Chiến lược Ngân hàng, NHNN năm 2016 kiến nghị việc xem xét chuyển dần sang khung khổ điều hành chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu. Các đặc trưng chính của chính sách tiền tệ theo lạm phát mục tiêu mà Việt Nam có thể hướng đến trong thời gian tới cụ thể như sau.
Thứ nhất, điều hành chính sách tiền tệ theo lạm phát cơ bản. Mục tiêu lạm phát cơ bản là mục tiêu quan trọng nhất, với vùng lạm phát đề ra hàng năm là 2,5% - 3%/năm (Ngân hàng Nhà nước có thể cân nhắc vùng khác). Theo quan điểm của Nghiên cứu, vùng lạm phát mục tiêu được xác định trên cơ sở dự báo có điều kiện, đảm bảo “neo” kỳ vọng lạm phát.
Thứ hai, trong quá trình chuyển đổi, Ngân hàng Nhà nước vẫn cần cân nhắc các mục tiêu trung gian về ổn định tỷ giá và lãi suất. Tăng trưởng và việc làm chỉ nên được coi là mục tiêu “sau” trong điều hành chính sách tiền tệ.
Thứ ba, Ngân hàng Nhà nước cần duy trì thông tin và trao đổi định kỳ với thị trường về dự báo lạm phát cơ bản, khả năng điều hành và các vấn đề khác, bảo đảm tính minh bạch và giải trình.
Phân tích trong Nghiên cứu cho thấy, quá trình này khó có thể hoàn tất trong 5 năm. Điều quan trọng là Việt Nam cần thực sự đặt mục tiêu ưu tiên về ổn định giá cả hoặc ổn định lạm phát, qua đó giúp quá trình chuẩn bị và chuyển đổi nhất quán hơn.
Cần lưu ý rằng kiến nghị trên đây không làm giảm vai trò của các chính sách kinh tế vĩ mô khác. Bản thân các chính sách này vẫn có thể được vận dụng linh hoạt trong điều kiện kinh tế có nhiều biến động lớn, bất lợi.
Nghiên cứu cho rằng, cần nhận thức lại vai trò của các chính sách tài khóa, thương mại và đầu tư cho phù hợp với yêu cầu điều hành nền kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Việc nhìn nhận này có thể giúp tháo gỡ các vấn đề về hiệu quả chính sách, hiệu quả điều phối với các chính sách khác.
Chẳng hạn, với chính sách tài khóa, sức ép giảm mức độ chi phối của chính sách này cần được nhìn nhận tích cực, với ý nghĩa tạo động lực xử lý thâm hụt ngân sách nhà nước để nợ công trở nên bền vững hơn.
Tương tự, tăng trưởng xuất khẩu không thể dựa hoàn toàn vào việc điều hành tỷ giá, mà cần dựa nhiều hơn vào nâng cao khả năng cạnh tranh (cả về chất lượng, giá cả và khả năng đáp ứng đơn hàng đúng hạn).