Thuế suất 0% chỉ được áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu, không áp dụng với hàng hóa bán trong nước

Thuế suất 0% chỉ được áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu, không áp dụng với hàng hóa bán trong nước

Thuế nào cho Vàng Bồng Miêu và Vàng Phước Sơn?

(ĐTCK) Ngoài đề xuất tính lại thuế tài nguyên, Vàng Bồng Miêu còn đề xuất áp thuế giá trị gia tăng 0% đối với vàng thỏi dore bán trong nước. Tuy nhiên, Tổng cục Thuế không chấp nhận.

Trong số báo trước, ĐTCK đã phản ánh việc Công ty TNHH Khai thác vàng Bồng Miêu và Công ty TNHH Vàng Phước Sơn có văn bản kiến nghị lên Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế cho rằng, việc xác định thuế đối với 2 công ty này là chưa phù hợp.

Do thực tế hoạt động của 2 công ty: khai thác quặng vàng nguyên khai, không bán ra, mà đưa vào quy trình chế biến khép kín thành sản phẩm vàng thỏi dore nên các quy định hiện hành về tính thuế tài nguyên không phù hợp.

Chính vì vậy, 2 công ty đã đề xuất Bộ Tài chính và Tổng cục Thuế xem xét, tính lại thuế tài nguyên, cho phép loại trừ chi phí trong tổng doanh thu để xác định giá bán tài nguyên nguyên khai. Theo đó, 2 công ty đã đưa ra 2 công thức tính thuế cho phù hợp với thực tế tình hình khai thác, chế biến và tiêu thụ. Cụ thể:

Phương án tính thuế đối với tài nguyên vàng nguyên khai:

Thuế tài nguyên vàng phải nộp = (giá bán vàng thỏi dore – chi phí chế biến, chi phí bán hàng) x thuế suất thuế tài nguyên

Trong đó, chi phí chế biến là toàn bộ chi phí sau công đoạn khai thác quặng vàng liên quan đến quá trình chế biến vàng thỏi dore bao gồm nguyên nhiên vật liệu (trừ quặng vàng), tiền lương, khấu hao tài sản cố định, công cụ… Chi phí bán hàng là toàn bộ chi phí liên quan đến tiêu thụ vàng thỏi dore theo quy định.

Phương án tính thuế tài nguyên đối với tài nguyên khác thu được trong quá trình khai thác quặng vàng:

Thuế tài nguyên khác phải nộp = [Giá bán sản phẩm (bạc) – chi phí chế biến, chi phí bán hàng của sản phẩm (bạc)] x thuế suất thuế tài nguyên khác

Trên thực tế có nhiều khoản chi phí tuyển luyện chế biến không thể hạch toán riêng, hai công ty đề xuất cho phép phân bổ theo tiêu chí doanh thu thực tế của từng loại tài nguyên trên tổng doanh thu bán các loại tài nguyên cụ thể:

Chi phí chế biến, bán hàng phân bổ cho từng loại sản phẩm  =  doanh thu của từng loại sản phẩm/tổng doanh thu bán sản phẩm x tổng chi phí chế biến, bán hàng được trừ.

Trước đó, trong giai đoạn 2010-2014, do chưa có tỷ lệ quy đổi nên 2 công ty đã tạm thời tính thuế tài nguyên phải nộp cho ngân sách trên giá bán vàng thỏi dore:

Thuế tài nguyên phải nộp = Giá bán vàng thỏi dore  x  thuế suất thuế tài nguyên

Đây chỉ là cách tạm tính của DN khi chưa có hướng dẫn của cơ quan có thẩm quyền nhằm xác định sản lượng tài nguyên tính thuế và giá tính thuế.

Đáng chú ý, ngoài đề xuất tính lại thuế tài nguyên, Công ty Vàng Bồng Miêu cũng có công văn kiến nghị về thuế giá trị giá tăng đối với vàng thỏi dore bán trong nước, đề nghị được áp dụng thuế suất 0%.

Về vấn đề này, vào cuối tháng 2 vừa qua, Tổng cục Thuế đã có Công văn số 535/TCT-CS trả lời Công ty Vàng Bồng Miêu, đồng thời gửi tới Cục Thuế Quảng Nam, Cục Thuế Đà Nẵng để thực hiện.

Theo đó, căn cứ vào Nghị định số 24/2013/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh doanh vàng và căn cứ vào Luật Thuế giá trị gia tăng quy định về đối tượng không chịu thuế, thuế suất 0% và phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng, Tổng cục Thuế khẳng định Công ty Vàng Bồng Miêu thuộc đối tượng áp dụng phương pháp khấu trừ thuế giá trị gia tăng.

Theo Tổng cục Thuế, sản phẩm vàng thỏi dore là sản phẩm cuối cùng của Nhà máy chế biến vàng Bồng Miêu và đã được cơ quan quản lý chuyên ngành xác định là tài nguyên khoáng sản đã qua chế biến thành sản phẩm khác, thì khi xuất khẩu thuộc đối tượng áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng 0%, khi bán trong nước thuộc đối tượng áp dụng thuế suất thuế giá trị gia tăng 10%.

Tổng cục Thuế khẳng định, kiến nghị của Công ty về việc áp dụng thuế suất giá trị gia tăng 0% đối với vàng thỏi dore bán trong nước là trái với quy định của Luật Thuế giá trị giá tăng. Thuế suất 0% chỉ được áp dụng đối với hàng hóa xuất khẩu, không áp dụng đối với hàng hóa bán trong nước.

Được biết, Tập đoàn Besra nhận giấy phép khai thác mỏ Bồng Miêu từ năm 1997 và xây dựng nhà máy đưa vào hoạt động năm 2005. Năm 1999, Mỏ Phước Sơn được cấp phép và tháng 6/2011 đi vào hoạt động.

Quá trình hoạt động, 2 công ty bị cơ quan thuế xác định nợ thuế lên đến 400 tỷ đồng và đã phải dừng hoạt động do Cục Thuế Quảng Nam áp dụng biện pháp cưỡng chế hóa đơn. Hiện, 2 công ty đang trong quá trình tái cơ cấu và phải giải quyết được nợ thuế trước khi tiến hành các bước tái cơ cấu tiếp theo.

Tin bài liên quan