Cùng gỡ nút thắt, rào cản xuất khẩu
Phát biểu khai mạc hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá cao những thành quả đạt được của xuất khẩu Việt Nam trong năm 2017 nhưng cũng chỉ rõ những mặt được, chưa được, nhận diện những cơ hội, thách thức, khó khăn vướng mắc cần tháo gỡ.
Theo Thủ tướng, hội nghị toàn quốc lần này là cơ hội quan trọng để cùng nghe tổng quát tình hình xuất khẩu toàn quốc đồng thời cùng tìm ra các giải pháp căn cơ, cụ thể nhằm tháo gỡ khó khăn, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường quốc tế, tất cả đều hướng đến mục tiêu đưa ngành công nghiệp Việt Nam cất cánh, trong đó vấn đề quan trọng nhất là xuất khẩu tăng trưởng, phát triển bền vững.
Đánh giá về hoạt động xuất khẩu năm qua, Thủ tướng nhấn mạnh kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lần đầu tiên vượt mốc 200 tỷ USD đạt 214 tỷ USD trong năm 2017, nhiều mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như điện tử, nông nghiệp, chế biến chế tạo. Nhiều sản phẩm đã tím ra được lối đi riêng, cách làm tốt như dày da đã biết ứng dụng công nghệ 4.0 để cải tiến mẫu mã.
"Tôi ấn tượng về công nghiệp chế biến chế tạo và nông nghiệp, ấn tượng với các kết quả của địa phương như Cà Mau, Bạc Liêu... các ngành, địa phương đã cùng vào cuộc để xuất khẩu đạt kết quả tốt", Thủ tướng cho biết.
Xuất khẩu các sản phẩm của ngành nông nghiệp năm 2017 đạt 36 tỷ USD, mục tiêu của năm 2018 đạt 54 tỷ USD. Đây là thành công lớn của ngành nông nghiệp, công thương và các địa phương.
Tuy nhiên, hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn nhiều điểm yếu như sản phẩm chưa đa dạng, giá trị gia tăng của sản phẩm chưa cao, vẫn còn nhiều nút thắt về sản xuất, thị trường, cơ chế chính sách, thực thi công vụ...
Việc mở cửa tiếp cận thị trường mới, với 12 hiệp định thương mại tự do được ký kết, đã góp phần thúc đẩy doanh nghiệp xuất khẩu phát triển. Doanh nghiệp không còn phụ thuộc vào một vài bạn hàng, một vài ngành hàng.
Thú tướng nhấn mạnh các DN, Bộ ngành chú trọng đưa ra các giải pháp cụ thể thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu năm 2018. Ảnh H.Y
Thủ tướng đặc biệt nhấn mạnh, các đại biểu, doanh nghiệp cần đưa ra các vấn đề khó khăn cốt lõi nhất của xuất khẩu hiện nay như vướng mắc gì, các vấn đề về gặp phải như thuế, hải quan, thị trường, sản phẩm...
Trong đó, chú trọng hướng đến các giải pháp nâng cao giá trị gia tăng, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, đưa ra các sáng kiến để tháo gỡ các nút thắt, rào cản xuất khẩu...
Làm sao để doanh nghiệp Việt Nam nắm bắt được thông tin thị trường, nhận định các cơ hội, rủi ro, định hướng thị trường xuất khẩu là vấn đề được Thủ tướng nêu ra và đề nghị các doanh nghiệp, hiệp hội, bộ ngành địa phương cùng kiến nghị các giải pháp cụ thể.
Trong đó, các địa phương từ Lạng Sơn có mặt hàng na, đến Cà Màu có sản phẩm tôm đều chú trọng đến các giải pháp để xuất khẩu tốt hơn.
Tốc độ tăng xuất khẩu bình quân đạt 12%/năm
Năm 2017, xuất khẩu hàng hóa đã đạt được những kết quả tích cực. Xuất khẩu tăng mạnh về quy mô, lần đầu tiên vượt mốc 200 tỷ USD.
Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh nhấn mạnh, so với quy mô xuất khẩu năm 2011 (96,9 tỷ USD), thời điểm bắt đầu thực hiện Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011-2020, định hướng đến năm 2030, xuất khẩu sau 7 năm đã bằng 2,21 lần.
Tốc độ tăng xuất khẩu bình quân đạt 12%/năm. Tăng trưởng xuất khẩu năm 2017 đã góp phần quan trọng vào tăng trưởng GDP, cải thiện cán cân thanh toán, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo hiệu ứng lan tỏa, thúc đẩy sản xuất, tạo công ăn việc làm và thu nhập cho hàng triệu lao động.
Cơ cấu hàng hóa xuất khẩu đã chuyển dịch thành công. Nhóm hàng công nghiệp chế biến năm 2017 chiếm tỷ trọng 81,3%, tăng mạnh so với mức 61% của năm 2011; tỷ trọng của hàng nông, thủy sản giảm còn 12,1% (năm 2011 là 20,4%); nhóm nhiên liệu, khoáng sản chỉ còn chiếm tỷ trọng khoảng 2% (năm 2011 chiếm 11,6%).
Nhóm hàng công nghiệp chế biến tiếp tục là động lực chính trong tăng trưởng xuất khẩu, nhiều mặt hàng đạt mức kim ngạch và tăng trưởng ấn tượng như điện thoại các loại và linh kiện (45,27 tỷ USD, tăng 31,9%), máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (25,9 tỷ USD, tăng 36,8%).
Tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm xuất khẩu dần được cải thiện. Nếu như năm 2000 tỷ lệ nội địa hoá trong ngành dệt may mới khoảng 15-17% thì đến năm 2017, tỷ lệ nội địa hóa đã đạt trên 50%. Không những phần nào chủ động được nguồn nguyên liệu trong nước, ngành dệt may còn xuất khẩu được nguyên phụ liệu (xơ, sợi dệt các loại có kim ngạch xuất khẩu tăng 22,7%).
Nhóm hàng nông sản, thủy sản có sự tăng trưởng tốt, đóng góp 8 mặt hàng vào nhóm kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD. Trong đó, nhiều mặt hàng có tăng trưởng cao như thủy sản đạt 8,32 tỷ USD, tăng 18%; rau quả đạt 3,5 tỷ USD, tăng 42,5%, hạt điều đạt 3,52 tỷ USD, tăng 23,8%,...
Công tác phát triển thị trường xuất khẩu đạt được những kết quả tích cực. Hàng hóa Việt Nam đã tiếp tục khai thác các thị trường truyền thống và mở rộng tìm kiếm, phát triển thêm nhiều thị trường mới. Cả năm 2017, có 28 thị trường xuất khẩu đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, trong đó 7 thị trường đạt kim ngạch trên 5 tỷ USD, 4 thị trường trên 10 tỷ USD.
Công tác khai thác cơ hội từ cam kết hội nhập được thực hiện có hiệu quả. Ở tất cả các thị trường mà Việt Nam có ký kết Hiệp định thương mại tự do (FTA) đều ghi nhận tăng trưởng vượt trội như: xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc tăng 31,1%, sang thị trường ASEAN tăng 24,3%, sang thị trường Nhật Bản tăng 14,2%...
Ngoài ra, các thị trường lớn như Hoa Kỳ, EU… đều được giữ vững, hoặc thậm chí có mức tăng ấn tượng như xuất khẩu sang Trung Quốc tăng 60,6%.
Ba nhóm giải pháp thúc đẩy xuất khẩu 2018
Bộ Công thương nhận định, năm 2018, xuất khẩu tiếp tục có những cơ hội để tăng trưởng. Nhu cầu thế giới sẽ tiếp tục phục hồi do tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2018 được dự báo khả quan.
Theo lộ trình cam kết tại các FTA, thuế nhập khẩu của các đối tác sẽ tiếp tục được xóa bỏ hoặc cắt giảm, tạo thêm lợi thế cạnh tranh cho hàng hóa của Việt Nam. Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định FTA Việt Nam - EU dự kiến có hiệu lực vào năm 2019 đã và đang tạo ra sức hút mới cho đầu tư trực tiếp nước ngoài, giúp nước ta có thêm năng lực sản xuất mới.
Bên cạnh đó, hoạt động xuất khẩu cũng tiếp tục có thuận lợi từ những nỗ lực của Chính phủ, các Bộ, ngành trong cải cách thủ tục hành chính, kiến tạo môi trường kinh doanh, đầu tư thuận lợi, thông thoáng, minh bạch; góp phần khơi thông nguồn lực cho sản xuất kinh doanh trong nước.
Mặc dù vậy, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Thương mại toàn cầu năm 2018 được dự báo sẽ tiếp tục khởi sắc nhưng vẫn tiềm ẩn những biến động khó lường khi quan hệ ngoại giao, kinh tế giữa các nền kinh tế lớn đang trở nên căng thẳng trong những ngày gần đây.
Chủ nghĩa bảo hộ đang xuất hiện trở lại và thể hiện rõ ràng hơn trong những tháng đầu năm 2018.
Các nước nhập khẩu áp dụng các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm và về bảo vệ môi trường ngày càng khắt khe. Đây là một trong những khó khăn lớn nhất mà xuất khẩu của Việt Nam phải đối mặt.
Bộ Công Thương đề xuất một số giải pháp để thúc đẩy xuất khẩu trong năm 2018. Các giải pháp này được chia thành 3 nhóm lớn.
Thứ nhất, nhóm giải pháp tác động vào phía cung, gồm các giải pháp tập trung vào đẩy mạnh tái cơ cấu sản xuất nông nghiệp, tăng cường kiểm soát nguồn cung, định hướng sản xuất gắn với tín hiệu thị trường; từng bước nâng cao và ổn định chất lượng nông sản, thủy sản xuất khẩu, đảm bảo đáp ứng các quy định ngày càng khắt khe của các thị trường nhập khẩu về chất lượng, an toàn thực phẩm; tháo gỡ các quy định, vướng mắc về thuế và kiểm tra chuyên ngành đối với nguyên liệu sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu và tăng cường đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho các ngành sản xuất, xuất khẩu.
Thứ hai, nhóm giải pháp tác động vào phía cầu, gồm các giải pháp đàm phán mở cửa và phát triển thị trường, các biện pháp nhằm duy trì thị trường xuất khẩu ổn định; tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác xúc tiến thương mại, xây dựng thương hiệu; tăng cường ứng phó với các biện pháp phòng vệ thương mại và những biện pháp bảo hộ không phù hợp với cam kết quốc tế.
Thứ ba, nhóm giải pháp có tác dụng hỗ trợ, tác động vào khâu tổ chức xuất khẩu, kết nối giữa cung và cầu, gồm các giải pháp nhằm cải cách thể chế, hoàn thiện hành lang pháp lý đối với hoạt động xuất khẩu; tăng cường và đổi mới công tác thông tin thị trường; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; tháo gỡ khó khăn trong thanh toán, tín dụng, đảm bảo nguồn vốn cho sản xuất, xuất khẩu.