Chuyển động thị trường:
- TTCK Việt Nam 2 sàn trái chiều: Vẫn kết cục 1 sàn tăng, 1 sàn giảm như 2 phiên đầu tuần, nhưng diễn biến đã được đảo ngược, trong khi HOSE khá vững vàng duy trì sắc xanh khi có dòng tiền hỗ trợ thì HNX lại bị đẩy lùi xuống dưới tham chiếu khi thiếu vắng các trụ cột.
Áp lực từ GAS và VNM đã ảnh hưởng lớn đến biến động của VN-Index trong phiên trong phiên giao dịch. Sang phiên chiều, đà tăng vững từ 2 cổ phiếu này tạo sức lan tỏa sang nhiều nhóm cổ phiếu nhỏ và vừa, đặc biệt là sự trở lại của những cổ phiếu họ “P” khi Tổng Công ty dầu khí Việt Nam (PVN) công bố tổng doanh thu hợp nhất 9 tháng đầu năm đạt 290 ngàn tỷ đồng, bằng 82% kế hoạch năm, lợi nhuận sau thuế đạt 36,5 ngàn tỷ đồng, bằng 91% kế hoạch năm, đã góp phần không nhỏ giúp VN-Index giữ vững đà tăng.
Một số cổ phiếu có thông tin tốt hỗ trợ như VHG, HVG… cũng là những mã thu hút được dòng tiền lớn.
Kết thúc phiên giao dịch, VN-Index tăng 3,18 điểm (+0,52%) lên 617,26 điểm; HNX-Index giảm 0,04 điểm (-0,04%) xuống 91,21 điểm. Tổng giá trị giao dịch trên 2 sàn đạt gần 4.300 tỷ đồng.
Hôm nay, nhà đầu tư nước ngoài đã bán ròng 2.092.228 đơn vị với tổng giá trị tương ứng 109,55 tỷ đồng, tăng 92,61% về lượng và 48,18% về giá trị so với phiên trước.
- Thị trường chứng khoán Mỹ lao dốc. Giới đầu tư tăng cường bán tháo đẩy thị trường chứng khoán phố Wall lao dốc khi Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) hạ dự báo tăng trưởng toàn cầu trong năm 2014. Đây là lần thứ hai trong vòng 6 tháng qua, IMF tiến hành điều chỉnh giảm dự báo tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Theo đó, tăng trưởng GDP toàn cầu xuống 3,3% trong năm 2014 và 3,8% trong năm 2015.
Bên cạnh đó, IMF cũng cảnh báo về những rủi ro do căng thẳng địa chính trị gây ra và tình trạng “sủi bọt” trên thị trường chứng khoán. IMF nhận định, chủ trương duy trì chính sách lãi suất thấp kỷ lục trong thời gian dài tại các nền kinh tế phát triển có thể khiến các thị trường tài chính trở nên quá nóng.
Ngoài ra, việc đồng USD liên tục tăng giá có thể sẽ ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của các công ty lớn ở nước ngoài, cũng là một yếu tố khiến chứng khoán giảm điểm.
Kết thúc phiên giao dịch gần nhất (sáng sớm hôm 8/10 theo giờ Việt Nam), chỉ số Dow Jones giảm 272,52 điểm (-1,60%), xuống 16.719,39 điểm. Chỉ số S&P 500 giảm 29,72 điểm (-1,51%), xuống 1.935,10 điểm. Chỉ số Nasdaq giảm 69,60 điểm (-1,56%), xuống 4.385,20 điểm.
Ngày mai (9/10), Ủy ban thị trường mở Liên bang sẽ công bố biên bản cuộc họp chính sách. Vấn đề đáng lo ngại của thị trường hiện này là ngân hàng trung ương có thể sẽ tăng lãi suất sớm hơn dự kiến do kinh tế Mỹ tăng trưởng mạnh mẽ.
- TTCK châu Á giảm nhiều hơn tăng: Không khí ảm đạm vẫn bao trùm trên các sàn giao dịch châu Á. Những lo ngại về triển vọng tăng trưởng kinh tế toàn cầu khiến giới đầu tư hướng sự quan tâm sang các kênh đầu tư an toàn hơn như trái phiếu, tiền tệ.
Kết thúc phiên giao dịch, chỉ số Nikkei trên TTCK Nhật Bản giảm 187,85 điểm (-1,19%) xuống 15.595,98 điểm; chỉ số Hang Seng Index trên TTCK Hồng Kong quay đầu giảm 159,19 điểm (-0,68%) xuống 23.263,33 điểm. Chứng khoán Hàn Quốc, Indonesia, Đài Loan cùng giảm.
TTCK Thượng Hải (Trung Quốc) quay trở lại sau kỳ nghỉ lễ dài ghi nhận mức tăng 0,8%.
Giá vàng SJC tăng 60.000 đồng/lượng. Giá vàng trong nước tiếp tục tăng thêm 60.000 đồng lên mức 35,68 – 35,80 triệu đồng/lượng khi giá vàng thế giới có đà hồi phục tốt trước diễn biến không mấy tích cực của chứng khoán.
Giá vàng giao dịch trên sàn Kitco hiện ở mức 1.218,4 USD/oz, tăng hơn 10 USD so với giá đóng cửa đêm qua.
Nhân tố ảnh hưởng chính tới giá vàng phiên hôm nay đến từ Mỹ. Biên bản cuộc họp chính sách của Cục dự trữ Liên bang Mỹ, được công bố hôm nay, sẽ cho nhà đầu tư thấy rõ quan điểm của các nhà chức trách đối với thời điểm nâng lãi suất. Biên bản này cung cấp những thông tin thiết thực về quan điểm của những người có quyền biểu quyết đối với việc nâng lãi suất trong thời điểm đó.
Theo phân tích kỹ thuật, vàng vẫn đang trong kênh giá trung ngắn hạn là giảm điểm. Nhìn trên biểu đồ ngày, thời điểm ba tháng trở lại đây đang xác định xu thế giảm mạnh. Mốc 1.232$ khá quan trọng khi giá vàng có thể vượt qua mức này để chính thức đi vào hồi phục tăng giá. Đà giảm sẽ tiếp tục ngự trị nều vàng không giữ được mốc 1.180$ trong tuần này.
Trên thị trường ngoại hối, hôm nay, tỷ giá được các ngân hàng giảm khá mạnh, đặc biệt ở chiều bán ra. Tỷ giá VND/USD niêm yết tại một số ngân hàng:
Ngân hàng |
Tỷ giá (đồng/USD) |
Tăng giảm (đồng/USD) |
||
Mua vào |
Bán ra |
Mua vào |
Bán ra |
|
Vietcombank |
21.235 |
21.285 |
-15 |
-25 |
BIDV |
21.235 |
21.285 |
-15 |
-25 |
Vietinbank |
21.230 |
21.280 |
-30 |
-30 |
Argibank |
21.230 |
21.305 |
-5 |
-5 |
Techcombank |
21.210 |
21.320 |
- |
- |
Eximbank |
21.210 |
21.280 |
-20 |
-20 |
MBB |
21.170 |
21.290 |
- |
-30 |
ACB |
21.230 |
21.280 |
- |
-20 |
Sở GD NHNN |
21.200 |
21.400 |
||
Tỷ giá bình quân liên ngân hàng: 1USD = 21.246 đồng |
- Thị trường trái phiếu thứ cấp tại Sở GDCK Hà Nội hôm nay có tổng cộng 27,45 triệu trái phiếu, trị giá 3.102 tỷ đồng được giao dịch, cụ thể như sau (xem bảng).
Mã TP |
Thời hạn |
Lợi suất |
KLGD |
GTGD |
TD1116019 |
12 Tháng |
11,0867 |
1.500.000 |
160.863.000.000 |
TD1316012 |
12 Tháng |
3,8499 |
500.000 |
55.836.500.000 |
TD1215132 |
12 Tháng |
3,8004 |
300.000 |
33.972.300.000 |
BVDB14098 |
12 Tháng |
4,4502 |
500.000 |
55.058.500.000 |
BVDB12190 |
3 Tháng |
3,0994 |
2.000.000 |
219.824.000.000 |
TD1417073 |
2 Năm |
4,28 |
500.000 |
54.723.500.000 |
TD1217016 |
2 Năm |
4,2498 |
500.000 |
61.352.500.000 |
VDB111036 |
2 Năm |
4,4003 |
2.000.000 |
234.342.000.000 |
TD1316019 |
2 Năm |
3,9999 |
57.144 |
6.521.273.280 |
TD1316019 |
2 Năm |
4,1499 |
300.000 |
34.144.200.000 |
TD1217016 |
2 Năm |
4,3001 |
500.000 |
61.290.000.000 |
TD1417075 |
2 Năm |
4,4001 |
2.000.000 |
214.160.000.000 |
TD1316019 |
2 Năm |
4,1499 |
500.000 |
56.907.000.000 |
TD1419081 |
3 - 5 Năm |
4,7499 |
1.000.000 |
119.013.000.000 |
TD1419081 |
3 - 5 Năm |
4,7499 |
500.000 |
59.506.500.000 |
TD1419082 |
3 - 5 Năm |
4,75 |
1.000.000 |
117.197.000.000 |
TD1419083 |
3 - 5 Năm |
5 |
140.000 |
16.047.220.000 |
TD1419083 |
3 - 5 Năm |
5 |
1.860.000 |
213.198.780.000 |
TD1424173 |
10 Năm |
6,1499 |
1.000.000 |
108.831.000.000 |
TD1424092 |
10 Năm |
6,1 |
500.000 |
60.801.500.000 |
TD1424093 |
10 Năm |
6,1 |
500.000 |
56.583.500.000 |
TD1424092 |
10 Năm |
6,4001 |
500.000 |
59.618.500.000 |
TD1424093 |
10 Năm |
6,06 |
500.000 |
56.740.500.000 |
TD1318021 |
3 Năm |
4,5 |
695.454 |
84.188.879.424 |
TD1217038 |
3 Năm |
4,4301 |
500.000 |
57.768.000.000 |
TD1417076 |
3 Năm |
4,4 |
500.000 |
53.445.500.000 |
TD1217036 |
3 Năm |
4,7499 |
500.000 |
59.603.000.000 |
TD1217036 |
3 Năm |
4,3501 |
500.000 |
60.119.000.000 |
TD1217036 |
3 Năm |
4,3602 |
500.000 |
60.106.000.000 |
TD1417078 |
3 Năm |
4,4501 |
500.000 |
52.903.500.000 |
TD1417078 |
3 Năm |
4,4501 |
600.000 |
63.484.200.000 |
TD1217036 |
3 Năm |
4,7702 |
500.000 |
59.577.000.000 |
TD1417077 |
3 Năm |
4,6501 |
500.000 |
52.808.000.000 |
TD1417077 |
3 Năm |
4,4 |
500.000 |
53.116.500.000 |
TD1217036 |
3 Năm |
4,3998 |
500.000 |
60.054.500.000 |
TD1419089 |
5 Năm |
4,8999 |
500.000 |
53.311.000.000 |
TD1419088 |
5 Năm |
4,85 |
500.000 |
54.295.000.000 |
TD1419089 |
5 Năm |
5,0001 |
1.000.000 |
106.180.000.000 |
TD1419088 |
5 Năm |
4,83 |
500.000 |
54.339.000.000 |