Thị trường tài chính 24h: Giảm nhưng chưa hoảng

Thị trường tài chính 24h: Giảm nhưng chưa hoảng

(ĐTCK) Dòng tiền ngoại vẫn là yếu tố tác động lớn đến TTCK. Chứng khoán lại có một phiên điều chỉnh khi quỹ VNM tiếp tục hoạt động rút vốn, đặc biệt là ở những mã cổ phiếu lớn.

Chuyển động thị trường:

- TTCK Việt Nam giảm điểm: Cú hồi cuối phiên hôm qua những tưởng thị trường sẽ có nhịp tăng trở lại trong phiên hôm nay. Nhưng sự đảo chiều của nhóm dầu khí, đặc biệt là tác động của người “anh cả” GAS khi khối ngoại xả hàng đã nhấn chìm mọi nỗ lực đi lên của VN-Index.

Cùng với GAS giảm sàn, PVD cũng rơi xuống sát giá sàn đã tác động rất lớn lên VN-Index. Tuy nhiên, thị trường cũng biết rằng, GAS đang gây ảnh hưởng trực tiếp lên Index nên cũng không xuất hiện nhiều sự hoảng loạn.

Mặc dù vậy, ngay cả khi loại bỏ ra yếu tố bất ngờ tại GAS thì thị trường hôm nay vẫn là một phiên điều chỉnh khi các mã lớn như VIC, MSN cũng ở trong xu thế giảm.

Sự trở lại của nhóm cổ phiếu ngân hàng là điểm tựa duy nhất, nhưng với đà tăng không mạnh và vẫn có sự phân hóa, nhóm cổ phiếu này chỉ như má phanh giúp chặn đà rơi của VN-Index.

Kết thúc phiên giao dịch, VN-Index giảm 6,5 điểm (-1,15%) xuống 560,93 điểm; HNX-Index giảm 0,17 điểm (-0,2%) xuống 83,15 điểm. Tổng giá trị giao dịch đạt hơn 2.260 tỷ đồng.

Hôm nay, khối ngoại đã bán ròng 909.530 đơn vị với tổng giá trị tương ứng 78,41 tỷ đồng, giảm 52,77% về lượng nhưng tăng 27,43% về giá trị so với phiên 24/3.

- TTCK Mỹ giảm. Những dữ liệu kinh tế từ doanh số bán nhà đến lạm phát và sản xuất chỉ ra nền kinh tế Mỹ vẫn còn mạnh mẽ. Điều này lại dấy lên lo ngại về khả năng Fed tăng lãi suất trong thời gian tới, khiến đồng USD tăng trở lại và đẩy phố Wall giảm khá mạnh trong phiên thứ Ba.

Theo đó, kết thúc phiên giao dịch (sáng sớm hôm 25/3 theo giờ Việt Nam), chỉ số Dow Jones giảm 104,90 điểm (-0,58%), xuống 18.011,14 điểm. Chỉ số S&P 500 giảm 12,92 điểm (-0,61%), xuống 2.091,50 điểm. Chỉ số Nasdaq giảm 16,25 điểm (-0,32%), xuống 4.994,73 điểm.

- TTCK châu Á tăng giảm đan xen. Theo đó, chỉ số Nikkei trên TTCK Nhật Bản tăng 32,75 điểm (+0,17%) lên 19.746,2 điểm; chỉ số Hang Seng trên TTCK Hồng Kông tăng 128,63 điểm (+0,53%) lên 24.528,23 điểm; chỉ số Shanghai trên TTCK Thượng Hải giảm 29,32 điểm (-0,79%) xuống 3.662,09 điểm.

Chứng khoán Hàn Quốc, Ấn Độ tăng, trong khi chứng khoán Indonesia, Đài Loan giảm điểm.

- Giá vàng SJC giảm 10.000 đồng/lượng: 2 ngày đầu tuần giữ nguyên mức giá dao dịch, hôm nay, giá vàng SJC giảm nhẹ 10.000 đồng/lượng, xuống 35,25 – 35,35 triệu đồng/lượng.

Trong khi đó, giá vàng thế giới cũng đi ngang khi bước vào phiên giao dịch châu Á, duy trì ở mức giá 1.193,2 USD/oz. Kết thúc phiên giao dịch đêm qua (theo giờ Việt Nam), giá vàng tăng 3,9 USD/oz, đánh dấu phiên thứ 5 tăng liên tiếp của vàng.

Vàng đang thiết lập chuỗi tăng giá dài nhất kể từ tháng 1 năm ngoái, do các nhà đầu tư đã quay trở lại với vàng trong vài ngày qua sau khi đồng USD giảm liên tiếp sau lập trường thận trọng của Fed về nền kinh tế Mỹ và làm giảm khả năng tăng lãi suất sớm.

Trên thị trường ngoại hối, tỷ giá VND/USD được niêm yết trên một số ngân hàng:

Ngân hàng

Tỷ giá (đồng/USD)

Tăng giảm (đồng/USD)

Mua vào

Bán ra

Mua vào

Bán ra

Vietcombank

21.465

21.525


BIDV

21.470

21.530


Vietinbank

21.475

21.535


Argibank

21.485

21.560


Techcombank

21.450

21.540


Eximbank

21.450

21.530


MBB

21.380

21.530


ACB

21.450

21.530


Sở GD NHNN

21.350

21.600


Tỷ giá bình quân liên ngân hàng: 1USD = 21.458 đồng

- Thị trường trái phiếu thứ cấp tại Sở GDCK Hà Nội hôm nay có tổng cộng 34 triệu trái phiếu, trị giá 3.669 tỷ đồng được giao dịch, cụ thể như sau (xem bảng).

Mã TP

Thời hạn
còn lại

Lợi suất
(%/năm)

KLGD

GTGD

TD1316014

12 Tháng

4,3829

2.900.000

301.507.200.000

VDB111003

12 Tháng

4,6309

1.000.000

107.333.000.000

TD1116019

12 Tháng

4,5996

1.000.000

106.812.000.000

TD1316017

12 Tháng

4,4496

500.000

54.000.500.000

BVDB13271

9 Tháng

4,5767

833.333

87.389.965.044

BVDB12209

9 Tháng

4,5783

500.000

53.501.500.000

TD1316019

2 Năm

4,7502

500.000

53.645.500.000

TD1417072

2 Năm

4,8602

500.000

52.164.000.000

TD1417073

2 Năm

4,8002

500.000

51.944.500.000

TD1417073

2 Năm

4,9003

1.000.000

103.704.000.000

TD1417073

2 Năm

4,8499

1.000.000

103.797.000.000

TD1417074

2 Năm

4,6501

1.000.000

103.224.000.000

TD1417079

2 Năm

4,8399

500.000

53.027.000.000

TD1217002

2 Năm

4,8298

1.500.000

171.993.000.000

TD1417073

2 Năm

4,7996

500.000

51.945.000.000

TD1417073

2 Năm

4,8499

500.000

51.898.500.000

TD1417076

2 Năm

4,8799

1.000.000

108.090.000.000

TD1417073

2 Năm

4,8602

1.500.000

155.667.000.000

TD1417076

2 Năm

4,8999

1.000.000

108.051.000.000

TD1417073

2 Năm

4,9003

1.500.000

155.556.000.000

TD1417071

2 Năm

4,8302

500.000

52.683.000.000

TD1316019

2 Năm

4,7802

1.000.000

107.244.000.000

TD1417076

2 Năm

4,8701

1.000.000

108.109.000.000

TD1419083

3 - 5 Năm

5,2301

1.000.000

108.753.000.000

TP4A4204

3 - 5 Năm

7,1461

670.000

74.709.690.000

TD1419086

3 - 5 Năm

5,32

500.000

55.915.000.000

TD1419083

3 - 5 Năm

5,22

500.000

54.395.000.000

TD1419085

3 - 5 Năm

5,2999

633.333

71.337.995.787

TD1419083

3 - 5 Năm

5,2501

1.000.000

108.680.000.000

TD1417166

3 Năm

4,8002

1.000.000

102.413.000.000

TD1429094

10 - 15 Năm

7,3

25.000

2.828.125.000

TD1520259

5 Năm

5,4499

500.000

50.286.500.000

VDB110024

5 Năm

6,5368

2.910.000

380.246.790.000

TD1520262

5 Năm

5,45

500.000

49.758.500.000

BVDB15211

5 Năm

5,7499

1.000.000

104.706.000.000

TD1520259

5 Năm

5,4701

1.000.000

100.489.000.000

TD1520259

5 Năm

5,3665

1.000.000

100.921.000.000

Tin bài liên quan