Năng lượng: Giá dầu giảm lần đầu tiên sau 2 tháng, khí LNG cũng giảm mạnh
Giá dầu thô Mỹ (WTI) tăng cao hơn vào thứ Sáu (29/10), được hỗ trợ bởi kỳ vọng Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC), Nga và các đồng minh, còn gọi là OPEC+, sẽ duy trì việc cắt giảm sản lượng.
Cụ thể, dầu Brent tăng 6 US cent lên 84,38 USD/thùng; dầu WTI cũng tăng 7,6 US cent (+0,9%) lên 83,57 USD. Tuy nhiên, cả 2 loại dầu đều giảm trong tuần qua, sau khi đạt mức cao nhất trong nhiều năm vào thứ Hai (25/10).
Giá dầu chịu áp lực kể từ hôm thứ Tư (27/10) khi dữ liệu từ Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ cho biết, các kho dự trữ dầu thô của Mỹ tăng 4,3 triệu thùng trong tuần gần nhất.
Dầu thô đã tăng mạnh trong năm 2021 khi các nền kinh tế phục hồi sau đại dịch, nhưng giá đang trên đà giảm trong tuần qua, trong đó dầu Brent ghi nhận tuần giảm đầu tiên trong 2 tháng qua.
Tất cả đang chờ đợi thông tin vào cuộc họp tiếp theo của OPEC+ vào ngày 4/11 tới. Các nhà phân tích kỳ vọng khối này sẽ bám sát kế hoạch tăng thêm 400.000 thùng mỗi ngày trong mỗi tháng cho đến tháng 4/2022.
Giá khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ giảm hơn 6% vào ngày 29/10, xuống mức thấp nhất trong một tuần do áp lực bởi sản lượng tăng của Mỹ và giá khí đốt toàn cầu giảm sau khi Nga cho biết sẽ xuất khẩu thêm nhiên liệu đến châu Âu.
Cụ thể, sau khi giảm gần 7% vào thứ Năm, hợp đồng khí LNG giảm 35,6 cent (-6,2%) vào thứ Sáu, xuống còn 5,426 USD/mmBtu, đưa hợp đồng vào mức đóng cửa thấp nhất kể từ ngày 22/10. Tuy nhiên, tính cả tuần, giá vẫn tăng khoảng 3% sau khi giảm khoảng 6% trong 3 tuần trước đó. Tính cả tháng 10/2021, giá đã giảm khoảng 8% sau khi tăng khoảng 90% trong 6 tháng trước đó.
Giá khí đốt tại châu Âu đã giảm hơn 11% trong ngày thứ hai liên tiếp sau khi Tổng thống Nga Vladimir Putin yêu cầu Gazprom GAZP.MM bắt đầu bơm khí vào kho chứa ở châu Âu sau khi Nga hoàn thành việc bổ sung kho dự trữ của mình.
Các nhà phân tích dự báo tồn kho khí đốt của Mỹ sẽ đạt mức cao nhất 3,6 tcf vào đầu mùa sưởi ấm vào tháng 11/2021. Các kho dự trữ của Mỹ hiện thấp hơn khoảng 3% so với mức trung bình 5 năm cho thời điểm này trong năm. Tại châu Âu, các nhà phân tích cho biết kho dự trữ thấp hơn bình thường khoảng 15%.
Trong khi đó, giá LNG châu Á giảm tuần thứ hai liên tiếp, tác động bởi giá giảm ở châu Âu, Các nguồn tin trong ngành cho biết, giá LNG trung bình giao tháng 12/2021 tại Đông Bắc Á giảm xuống 31 USD/mmBtu (-10%) so với tuần trước nữa.
Kim loại: Kim loại quý chịu sức ép giảm giá, kim loại công nghiệp tăng, trừ quặng sắt
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giảm xuống mức thấp nhất trong hơn một tuần qua bởi USD mạnh lên sau khi số liệu cho thấy lạm phát của Mỹ vẫn ở mức cao trong tháng 10/2021, khiến sự tập trung trở lại vào cuộc họp chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) trong tuần này.
Theo đó, vàng giao ngay giảm 0,9% xuống 1.782,23 USD/ounce; vàng kỳ hạn tháng 12/2021 giảm 1,04% xuống 1.783,90 USD/ounce.
Số liệu chi tiêu của người tiêu dùng làm dấy lên lo lắng về việc Fed sẽ thực hiện chính sách tiền tệ tích cực để chống lại sự tăng giá, khiến lợi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của Mỹ tăng lên 1,6190% và USD tăng 0,8%.
Fed dự kiến sẽ công bố thời điểm bắt đầu cắt giảm kích thích vào cuối cuộc họp chính sách kéo dài trong ngày 2-3/11.
Về những kim loại quý khác, giá bạc giảm 2% về 23.95 USD/ounce, giá bạch kim giảm gần 3% còn 1020.7 USD/ounce. Trong một tuần mà USD giảm mạnh do những số liệu kinh tế tiêu cực của Mỹ, các mặt hàng kim loại quý nhìn chung đều không được hỗ trợ nhiều bởi dòng vốn ưu tiên quay trở lại các thị trường đầu tư mạo hiểm như thị trường chứng khoán và thị trường tiền điện tử.
Ở nhóm kim loại công nghiệp, trên Sàn giao dịch kim loại London ngày 29/10, giá đồng kỳ hạn 3 tháng giảm 0,2% xuống 9,652 USD/tấn. Tuy nhiên, giá đồng đã tăng 8% trong tháng và đang trên đà tăng hàng tháng lớn nhất kể từ tháng 4/2021.
Trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải, giá đồng giao tháng 12/2021 tăng 0,8% lên 70.910 CNY (tương đương 11.094,25 USD)/tấn.
Đầu tháng 10 vừa qua, giá đồng đã tăng lên 10.452,50 USD/tấn tại London và 76.490 CNY/tấn tại Thượng Hải, so với mức cao kỷ lục khi tồn kho tại các kho giảm xuống mức thấp nhất trong nhiều năm.
Dự trữ đồng tại kho Thượng Hải lần cuối ở mức 39.839 tấn, mức cao chưa từng thấy kể từ tháng 6/2009, trong khi dự trữ đồng tại kho London thấp nhất kể từ năm 1998, trước khi tăng nhẹ trong những phiên gần đây.
Trên sàn giao dịch London, giá nhôm tăng 0,2% lên 2.752,50 USD/tấn, nhưng được ấn định mức giảm hàng tháng đầu tiên kể từ tháng 1/2021 do giá than sụt giảm. Trên sàn Thượng Hải giá nhôm tăng 3,3% lên 20.350 CNY/tấn.
Sản lượng nhôm trong tháng 9 tại Trung Quốc - nhà sản xuất hàng đầu thế giới, sụt giảm tháng thứ 5 liên tiếp. Các nhà phân tích tại Commerzbank cho biết, nguồn cung nhôm toàn cầu sẽ vẫn thiếu hụt do áp lực lợi nhuận của các nhà máy luyện nhôm ở Trung Quốc cùng các nhà sản xuất lớn Norsk Hydro và Rusal cảnh báo tình trạng thiếu hụt nhôm tiếp diễn.
Giá chì được giao dịch trên sàn London giảm 0,5% xuống 2.411 USD/tấn, nhưng được thiết lập để đạt mức tăng hàng tháng lớn nhất kể từ tháng 1/2017 và giá chì trên sàn giao dịch Thượng Hải đã tăng 0,6% lên 15.795 NDT/tấn.
Thép cây và thép cuộn cán nóng của Trung Quốc tăng do Bộ Môi trường đã cam kết cắt giảm nồng độ hạt độc hại, nhỏ trong không khí được gọi là PM2,5 trong mùa đông, trong khi các thành phần sản xuất thép giảm nhiều hơn.
Sản lượng của 5 sản phẩm thép chính - thép cây, thép cuộn cán nóng, thép cuộn, cuộn cán nguội và thép tấm - tại các nhà sản xuất thép tăng 4,9% trong tuần qua, đạt 9,2 triệu tấn. Tuy nhiên, sản lượng này thấp hơn nhiều sản lượng hàng tuần 10,7 triệu tấn trong giai đoạn đầu năm nay.
Thép cây trên sàn Thượng Hải kỳ hạn tháng 1/2022 đóng cửa tăng 0,8% lên 4.646 CNY (727,14 USD)/tấn. Thép cuộn cán nóng tăng 0,9% lên 5.003 CNY/tấn và thép không gỉ tăng 0,6% lên 19.080 CNY/tấn.
Ngược lại, quặng sắt giảm 5,6% xuống 638 CNY/tấn. Giá quặng sắt giao ngay hàm lượng 62% Fe ở Trung Quốc giảm 6 USD xuống 116,5 USD/tấn trong ngày 28/10, theo số liệu của SteelHome.
Nông sản: Giá đồng loạt tăng mạnh, trong đó lúa mì tăng 5 tháng liên tục
Kết thúc phiên 29/10, giá đậu tương kỳ hạn tháng 1/2022 tăng 1,52% lên 1.249,5 cent/giạ. Sau đợt tăng mạnh gần 25 cents trong phiên 25/10, giá đậu tương tiếp tục giằng co quanh mức 1.250 cent/giạ trong những phiên sau đó.
Song, dầu đậu tương lại suy yếu, giảm hơn 1,3% về 61,27 cents/pound và xóa đi hoàn toàn mức tăng từ tuần trước đó. Tác động “bearish" sau báo cáo của Cơ quan Năng lượng Mỹ (EIA) lên giá dầu thô cũng tạo áp lực lên mặt hàng này, trong khi nhu cầu tiêu thụ dầu cọ tại Trung Quốc có nguy cơ bị ảnh hưởng do số ca nhiễm Covid-19 bất ngờ tăng mạnh. Tác động trái chiều với dầu đậu tương trong khi giá đậu tương tăng lên cũng giúp cho giá khô đậu tương ghi nhận mức tăng gần 1,6% lên 332,6 USD/tấn trong tuần qua.
Giá ngô kết thúc tuần giao dịch cuối tháng 10/2021 tăng vọt 5,62% lên 568,25 cents/giạ - cũng là mức tăng mạnh nhất trong hơn 3 tháng qua. Ngô tăng liên tiếp cả 5 phiên trong tuần qua và đà tăng được thúc đẩy nhờ nhu cầu tiêu thụ trong ngành công nghiệp ethanol hồi phục trở lại.
Giá lúa mì đóng cửa tuần giao dịch tháng 10/2021 cũng tăng mạnh nhờ lo ngại về nguồn cung cùng với ảnh hưởng tích cực từ mức tăng rất lớn của giá ngô do vai trò thay thế của 2 sản phẩm này trong hoạt động sản xuất thức ăn chăn nuôi.
Theo đó, lúa mì mềm đỏ vụ đông kỳ hạn tháng 12/2021 đóng cửa tăng 1/4 US cent lên 7,72-3/4 USD/bushel. Như vậy, hợp đồng này đã tăng 6,5% trong tháng 10 vừa qua và tăng tháng thứ 5 liên tiếp - chuỗi dài nhất kể từ năm 2007.
Tuần qua, giá đường trên 2 sàn kỳ hạn tăng trở lại. Cụ thể, giá đường trắng kỳ hạn tháng 12/2021 trên sàn London có mức thấp nhất ở mức 500,6 USD/tấn phiên đầu tuần 22/10, sau đó tăng dần lên mức cao nhất 518,5 USD/tấn phiên 27/10. Chốt phiên 29/10 về mức 510,3 USD/tấn (tăng 1,94% trong cả tuần).
Giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2022 trên sàn New York cũng có diễn biến tương tự, với mức thấp nhất chốt phiên đầu tuần 22/10 ở mức giá 19,08 US cent/lb, mức cao nhất 19,7 US cent/lb xác định trong phiên 27/10, trước khi giảm về 19,28 US cent/lb trong phiên 29/10 (tăng 1,05% trong cả tuần).
Đường trắng 45 ICUMSA của Thái Lan tuần qua có diễn biến khác một chút so với diễn biến của 2 sàn giao dịch London và New York, khi giá từ phiên đầu tuần 25/10 đi xuống mức thấp nhất 500,6 USD/tấn rồi mới vọt lên mức cao nhất ở 518,5 USD/tấn ở phiên 28/10. Phiên cuối tuần 29/10, giá chốt ở mức 516,3 USD/tấn (tăng 3,1% trong cả tuần).
Các đại lý cho biết, giá xăng tăng tại Brazil đã hỗ trợ thị trường đường trong những phiên đầu tuần. Tuy nhiên, sự tăng giá năng lượng dần mất đà về cuối tuần, kéo giá đường giảm, trong khi mưa ở Brazil tiếp tục cải thiện khiến triển vọng trong năm tới được cho là giảm sự quan tâm của các quỹ vào mặt hàng đường.
Nguyên liệu công nghiệp: Cao su tăng giá 5 tuần liên tiếp
Trên thị trường cà phê, các đại lý cho biết, mặt hàng này không vượt qua được mức kháng cự 2.279 USD/tấn, mức đỉnh thiết lập trong tháng 2/2017, đã dẫn tới sự sụt giảm trong ngắn hạn, nhưng các yếu tố cơ bản vẫn tích cực với các nguồn cung khan hiếm bởi xuất khẩu từ Việt Nam chậm lại. Xuất khẩu cà phê của Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2021 dự kiến giảm 5,1% so với cùng kỳ năm trước xuống 1,27 triệu tấn.
Theo đó, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2022 đóng cửa phiên 29/10 tăng 37 USD hay 1,7% lên 2.214 USD/tấn. Cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2021 tăng 4 US cent (+2%) lên 2,0395 USD/lb do tình trạng không rõ ràng về vụ tới của Brazil tiếp tục củng cố thị trường.
Giá cao su Nhật Bản tăng bởi JPY yếu so với USD, đánh dấu tuần tăng thứ 5 liên tiếp, cho dù một số nhà đầu tư vẫn ở ngoài lề trước thềm cuộc tổng tuyển cử.
Theo đó, hợp đồng cao su giao tháng 4/2022 trên sàn giao dịch Osaka đóng cửa phiên 29/10 tăng 2 JPY (+0,9%) lên 232,8 JPY (2,1 USD)/kg, tính cả tuần tăng 0,8%.
Giá cao su kỳ hạn tháng 1/2022 tại sàn Thượng Hải giảm 20 CNY xuống 14.880 CNY (2.328 USD)/tấn. Tồn trữ cao su tại sàn này đã tăng 5,9% so với tuần trước nữa.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua
(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn). |