Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 7-14/12: Giá ca cao tiến gần 11.722 USD/tấn, dầu bật mạnh và vàng giữ đà tăng

Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 7-14/12: Giá ca cao tiến gần 11.722 USD/tấn, dầu bật mạnh và vàng giữ đà tăng

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 7-14/12, thị trường hàng hóa thế giới tiếp tục chứng kiến đà tăng của ca cao khi tiến gần tới mức giá kỷ lục tháng 4 là 11.722 USD/tấn, trong khi dầu cũng bật mạnh và vàng giữ đà tăng.

Năng lượng: Giá dầu tăng 5%, khí LNG cũng tăng 7%

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu tăng lên mức cao nhất 3 tuần do dự đoán các lệnh trừng phạt bổ sung với Nga và Iran có thể hạn chế nguồn cung và lãi suất giảm ở châu Âu và Mỹ có thể thúc đẩy nhu cầu nhiên liệu.

Cụ thể, chốt phiên 13/12, dầu Brent tăng 1,08 USD (+1,5%) lên 74,49 USD/thùng; dầu WTI tăng 1,27 USD (+1,8%) lên 71,29 USD/thùng. Tính chung cả tuần, dầu Brent tăng 5% và đóng cửa cao nhất kể từ ngày 22/11/2024; dầu WTI tăng 6% và đóng cửa cao nhất kể từ ngày 7/11/2024.

Các đại sứ EU đã nhất trí áp đặt gói trừng phạt thứ 15 với Nga trong tuần qua vì cuộc xung đột tại Ukraine, mục tiêu nhằm vào các tàu chở dầu ngầm của nước này. Mỹ đang cân nhắc các động thái tương tự.

Anh, Pháp và Đức thông báo với Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã sẵn sàng, nếu cần thiết, kích hoạt cơ chế quay lại ngay lập tức đối với tất cả lệnh trừng phạt quốc tế đối với Iran nhằm ngăn chặn nước này sở hữu vũ khí hạt nhân.

Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) tăng dự báo tăng trưởng nhu cầu dầu toàn cầu năm 2025 lên 1,1 triệu thùng/ngày từ 990.000 thùng/ngày tháng trước, do các biện pháp kích thích của Trung Quốc.

Lượng cho vay mới của các ngân hàng ở Trung Quốc tăng ít hơn dự kiến trong tháng 11, cho thấy nhu cầu tín dụng yếu tại đây khi các nhà hoạch định chính sách cam kết triển khai thêm nhiều biện pháp kích thích.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng tại Mỹ tăng lên mức cao nhất 2 tuần do dự báo thời tiết lạnh hơn và nhu cầu sưởi ấm cao hơn và lượng khí đốt vào các nhà máy xuất khẩu khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tăng.

Cụ thể, giá LNG giao tháng 1/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York tăng 21,5 cent (+6,8%) lên 3,378 USD/mmBtu - cao nhất kể từ ngày 29/11/2024, cũng là mức tăng hàng ngày cao nhất kể từ ngày 25/11/2024.

Công ty Tài chính LSEG cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã tăng lên 102,8 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) cho đến nay trong tháng 12, tăng từ 101,5 bcfd vào tháng 11. Con số này so sánh với mức kỷ lục 105,3 bcfd vào tháng 12/2023.

Với thời tiết ấm hơn sắp tới, LSEG dự báo nhu cầu khí đốt trung bình ở 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ giảm từ 128,8 bcfd trong tuần này xuống 123 bcfd vào tuần tới.

Lượng khí đốt đến 7 nhà máy xuất khẩu LNG lớn đang hoạt động của Mỹ đã tăng lên mức trung bình 14,0 bcfd cho đến nay trong tháng 12, tăng từ mức 13,6 bcfd vào tháng 11. Con số này so sánh với mức cao kỷ lục hàng tháng là 14,7 bcfd vào tháng 12 năm 2023.

Mỹ đã trở thành nhà cung cấp LNG lớn nhất thế giới vào năm 2023, vượt qua các nước là Úc và Qatar, vì giá toàn cầu cao hơn nhiều thúc đẩy nhu cầu xuất khẩu nhiều hơn.

Kim loại: Giá vàng tăng; đồng, quặng sắt và thép biến động trái chiều

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giảm sau khi lên mức cao nhất trong hơn 5 tuần trong phiên 12/12 và do USD tăng, nhưng tính chung cả tuần giá tăng bởi dự đoán Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cắt giảm lãi suất trong tuần này.

Cụ thể, vàng giao ngay giảm 1,1% xuống 2.652,29 USD/ounce do USD ổn định ở mức cao nhất trong hơn 2 tuần, nhưng cả tuần vẫn tăng hơn 0,8%. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 2/2025 giảm 1,2% xuống 2.675,8 USD/ounce.

Được hỗ trợ bởi chính sách tiền tệ nới lỏng, ngân hàng trung ương mua vào mạnh và nhu cầu trú ẩn an toàn, giá vàng đã phá vỡ nhiều kỷ lục trong năm nay.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng trên thị trường quốc tế có những biến động trái chiều trong phiên cuối tuần qua (13/12). Trên Sàn giao dịch kim loại London (LME), giá đồng giao sau 3 tháng giảm 0,29% xuống 9.060 USD/tấn. Ngược lại, hợp đồng đồng giao tháng 1/2025 trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) nhích tăng 0,01% lên 75.500 CNY (10.396,01 USD)/tấn.

Trọng tâm của thị trường hiện nay là làm rõ các mục tiêu kinh tế và biện pháp kích thích cho năm 2025 của Trung Quốc. Đầu tuần, nước này tuyên bố sẽ áp dụng chính sách tiền tệ “thích hợp nới lỏng” và sử dụng các công cụ tài chính “chủ động hơn” để thúc đẩy tăng trưởng. Những cam kết này đã tạo ra tâm lý lạc quan, đẩy giá đồng tiệm cận mức cao nhất trong vòng 1 tháng qua. Tuy nhiên, thị trường cũng chịu áp lực từ USD mạnh lên, làm cho kim loại giao dịch bằng “đồng bạc xanh” trở nên đắt đỏ hơn đối với các nhà đầu tư sử dụng các loại tiền tệ khác.

Không chỉ đồng, các kim loại cơ bản khác cũng ghi nhận biến động. Trên sàn LME, giá nhôm tăng 0,6% lên 2.617,5 USD/tấn; niken tăng 1,4% lên 16.080 USD/tấn; thiếc tăng 0,1% lên 29.995 USD/tấn; kẽm tăng 0,2% lên 3.130,5 USD/tấn; trong khi chì giảm 0,2% còn 2.038,5 USD/tấn.

Trên sàn SHFE, giá nhôm tăng 0,7% lên 20.515 CNY/tấn; niken tăng 2,9% lên 128.950 CNY/tấn; thiếc tăng 1,1% lên 251.490 CNY/tấn; kẽm tăng 0,3% lên 22.487,4 CNY/tấn; trong khi chì giảm 0,7% xuống 17.530 CNY/tấn.

Trong ngắn hạn, thị trường kim loại cơ bản tiếp tục bị chi phối bởi các yếu tố như chính sách kinh tế từ Trung Quốc, biến động của USD và kỳ vọng về lãi suất của Fed. Dù giá đồng đang dao động quanh mức cao nhất tháng, áp lực từ yếu tố bên ngoài và nhu cầu toàn cầu chưa rõ ràng có thể khiến kim loại này gặp khó khăn trong việc duy trì đà tăng.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt tương lai giảm trong phiên 13/12, nhưng kết thúc tuần ở mức cao do các nhà đầu tư đánh giá lời cam kết mới nhất của Trung Quốc về các biện pháp kích thích tiếp theo để củng cố nền kinh tế của nước này đang suy yếu.

Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 1/2025 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) giảm 1,12% xuống 797 CNY(109,50 USD)/tấn. Tuy nhiên, tính cả tuần, hợp đồng này tăng 0,31% - là tuần tăng thứ tư liên tiếp. Tương tự, giá quặng sắt chuẩn giao tháng 1/2025 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 2,13% xuống 103,8 USD/tấn và tăng 2,65% trong tuần.

Bắc Kinh đã cam kết sẽ tăng thâm hụt ngân sách, phát hành thêm nợ và nới lỏng chính sách tiền tệ do chuẩn bị cho căng thẳng thương mại gia tăng trước nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của ông Donald Trump. Giá quặng còn chịu áp lực do lượng dự trữ ở cảng cao, ở mức trên 150 triệu tấn - cao nhất từ trước đến nay vào thời điểm này trong năm.

Giá các thành phần sản xuất thép khác trên sàn DCE tiếp tục giảm, với giá than cốc và than luyện cốc lần lượt giảm 2,15% và 3,12%. Các chuẩn thép trên sàn SHFE suy yếu: Giá thép cây giảm 1,73%; thép cuộn giảm 1,9%; thép dây giảm 1,3% và thép không gỉ giảm 0,57%.

Nông sản: Giá ngô duy trì đà tăng, đi ngược với lúa mì và đậu tương

Giá lúa mì tương lai trên Sàn giao dịch Chicago (CBOT) giảm vào thứ Sáu (13/12) do USD tăng mạnh, khiến hàng hóa xuất khẩu của Mỹ trở nên đắt đỏ hơn đối với những người sử dụng các loại tiền tệ khác. Theo các nhà phân tích, hoạt động buôn bán lúa mì toàn cầu chậm lại cũng góp phần khiến giá giảm.

Cụ thể, lúa mì mùa Đông đỏ mềm tháng 3/2025 giảm 6,25 cent xuống 5,5225 USD/giạ; lúa mì cứng đỏ mùa Đông cùng kỳ hạn giảm 5,75 cent xuống 5,57 USD/giạ; lúa mì xuân cùng kỳ hạn giảm 4 cent xuống 5,9805 USD/giạ. Cả tuần, giá lúa mì giảm 0,9%.

Giá ngô tương lai CBOT cũng giảm, chủ yếu do hoạt động bán kỹ thuật và sự thất vọng với doanh số xuất khẩu thấp hơn dự báo. Theo dữ liệu từ Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ (USDA), doanh số xuất khẩu ngô ròng đạt 946.900 tấn, thấp hơn dự báo của các nhà phân tích ít nhất 1,1 triệu tấn.

Cụ thể, giá ngô tháng 3/2024 giảm 1,05 cent xuống 4,42 USD/giạ. Tuy nhiên, cả tuần giá tăng 0,45%.

Tương tự, giá đậu tương giảm do áp lực từ hoạt động bán kỹ thuật và lo ngại về nhu cầu từ Trung Quốc. Cục Thống kê Quốc gia Trung Quốc công bố rằng, tổng sản lượng ngũ cốc của nước này đạt mức kỷ lục hơn 700 triệu tấn trong năm 2024. Điều này phản ánh nỗ lực của Bắc Kinh nhằm giảm sự phụ thuộc vào nhập khẩu thực phẩm, nhưng cũng làm dấy lên lo ngại về nhu cầu từ Trung Quốc đối với đậu tương.

Cụ thể, giá đậu tương tháng 1/2025 giảm 7,05 cent xuống 9,8825 USD/giạ và cả tuần giảm 0,55%. Bên cạnh đó, giá bột đậu tương tháng 1/2025 giảm 3,3 USD xuống 286,2 USD/tấn; dầu đậu nành tháng 1/2025 giảm 0,06 cent xuống 42,61 cent/pound.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá ca cao tiếp tục tăng mạnh, cao su và đường đi xuống, cà phê trái chiều

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường tiếp tục suy yếu. Cụ thể, hợp đồng đường thô tương lai giảm 0,17 cent (-0,8%) xuống 20,72 cent/pound, sau khi chạm mức thấp nhất trong gần 3 tháng qua là 20,57 cent/pound và giảm 5% trong tuần. Tương tự, giá đường trắng tháng 3/2024 giảm 0,9% xuống 528 USD/tấn, ghi nhận mức giảm trong tuần là 5,8%.

Sản lượng đường của Brazil - quốc gia sản xuất đường hàng đầu thế giới, vào cuối tháng 11/2024 bất ngờ tăng, cho thấy sản lượng vụ cuối có thể cao hơn dự báo của nhiều nhà phân tích.

Giá cà phê Arabica trên sàn ICE giảm 1,75 cent (-0,5%) về 3,195 USD/pound, giảm khá xa so với mức kỷ lục 3,4835 USD/pound đạt được vào ngày 10/12 và cả tuần giảm 3,2%. Ngược lại, cà phê Robusta tăng 0,6% lên 5.184 USD/tấn.

Các đại lý cho biết, thị trường đang điều chỉnh lại lo ngại về triển vọng sản xuất của Brazil - quốc gia sản xuất cà phê hàng đầu thế giới. Các nhà rang xay tại Brazil đang điều chỉnh giá cà phê với mức tăng mạnh và các thương nhân kỳ vọng giá sẽ tiếp tục tăng trên toàn cầu, dẫn đến khả năng tiêu thụ sẽ chậm lại, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Tại Việt Nam - quốc gia sản xuất cà phê Robusta hàng đầu, mưa trái mùa trở lại có thể gây gián đoạn vụ thu hoạch vốn đã bị chậm trễ.

Giá ca cao đạt mức đỉnh mới trong 7,5 tháng vào thứ Sáu (13/12), với hợp đồng tương lai ca cao New York tăng 4,4% lên 11.300 USD/tấn và ghi nhận mức tăng 15% trong tuần, đang tiến gần mức kỷ lục của tháng 4/2024 là 11.722 USD/tấn. Giá ca cao London cũng tăng 3,5% lên 8.926 USD/tấn và tăng 8% trong tuần.

Các đại lý cho biết, thời tiết khô hạn gần đây ở khu vực sản xuất chính Tây Phi đã ảnh hưởng đến kỳ vọng về sản lượng ca cao, đặc biệt tại các quốc gia như Bờ Biển Ngà. Bên cạnh đó, nhu cầu ca cao vẫn chưa có dấu hiệu giảm. Tại Bờ Biển Ngà, nơi cạnh tranh với Hà Lan để trở thành quốc gia xay ca cao lớn nhất thế giới, nhu cầu tăng 1,6% trong 2 tháng tính đến tháng 11/2024 so với cùng kỳ.

Giá cao su Nhật Bản giảm trong phiên 13/12 và ghi nhận tuần giảm đầu tiên sau 3 tuần do lo ngại về nhu cầu yếu theo mùa lấn át triển vọng kích thích kinh tế bổ sung từ Mỹ.

Cụ thể, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 5/2025 trên Sàn giao dịch Osaka giảm 2 JPY (-0,54%) xuống 369,4 JPY (2,42 USD)/kg và giảm 2,38% trong tuần - tuần giảm lần đầu tiên kể từ ngày 22/11/2024. Cao su giao tháng 5/2025 tại Thượng Hải giảm 220 CNY (-1,17%) xuống 18.525 CNY (2.545,52 USD)/tấn và giảm 2,17% trong tuần.

Mùa Đông theo truyền thống là mùa thấp điểm đối với nhu cầu trong ngành lốp ô tô và dự kiến tỷ lệ hoạt động của các nhà sản xuất lốp cao su trong tháng 12 có thể giảm, theo trang Hexun Futures về thông tin tài chính Trung Quốc.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

Tin bài liên quan