Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 5-11/11: Dầu và vàng tiếp tục giảm giá, ca cao lên đỉnh gần 45 năm

Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 5-11/11: Dầu và vàng tiếp tục giảm giá, ca cao lên đỉnh gần 45 năm

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 5-11/11, thị trường hàng hóa thế giới tiếp tục chứng kiến sự điều chỉnh của giá dầu và vàng sau chuỗi ngày tăng liên tiếp. Trong khi đó, mặt hàng ca cao gây chú ý khi giá tăng lên mức cao kỷ lục gần 45 năm qua.

Năng lượng: Giá dầu giảm tuần thứ 3 liên tiếp, khí LNG cũng xuống mức thấp nhất 2 tuần

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu tăng trong phiên 10/11 khi I-rắc lên tiếng ủng hộ việc cắt giảm dầu của OPEC + và một số nhà đầu cơ bán khống lớn.

Ả Rập Xê-út và Nga cũng đã xác nhận sẽ tiếp tục cắt giảm sản lượng dầu cho đến cuối năm nay.

Tại Mỹ, các công ty năng lượng đã cắt giảm số lượng giàn khoan dầu hoạt động tuần thứ hai liên tiếp xuống mức thấp nhất kể từ tháng 1/2022.

Theo đó, giá dầu Brent giao sau tăng 1,42 USD (+1,8%) lên 81,43 USD/thùng; dầu thô Tây Texas (WTI) tăng 1,43 USD (+1,9%) lên 77,17 USD/thùng. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, cả hai loại dầu đều ghi nhận tuần giảm thứ ba liên tiếp kể từ tháng 5/2023.

Dữ liệu kinh tế yếu kém của Trung Quốc trong tuần qua làm gia tăng lo ngại về nhu cầu chững lại. Các nhà máy lọc dầu ở Trung Quốc - khách hàng mua dầu thô lớn nhất từ nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới Ả Rập Xê-út - đã yêu cầu nguồn cung ít hơn cho tháng 12 tới.

Chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ Mary Daly cho biết chưa sẵn sàng để nói liệu Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) có hoàn thành việc tăng lãi suất hay không. Lãi suất cao hơn có thể làm giảm nhu cầu dầu bằng cách làm chậm tăng trưởng kinh tế.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ giảm xuống mức thấp nhất 2 tuần vào thứ Năm (9/11) do sản lượng thấp kỷ lục và dự báo thời tiết ôn hòa đến cuối tháng 11 này sẽ hạn chế nhu cầu.

Cụ thể, giá LNG giao tháng 12/2023 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York giảm 6,5 cent (-2,15%) xuống 3,041 USD/(mmBtu) - mức đóng cửa thấp nhất kể từ ngày 25/10/2023.

Sản lượng khí đốt trung bình tại 48 bang của Mỹ đã tăng lên 107,0 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) từ đầu tháng 11 đến nay, tăng từ mức kỷ lục 104,2 bcfd trong tháng 10.

Dự báo thời tiết mát mẻ hơn sẽ khiến nhu cầu khí đốt của Mỹ tại 48 tiểu bang, bao gồm cả xuất khẩu, tăng từ 101,6 bcfd trong tuần qua lên 107,8 bcfd vào tuần này. Dự báo cho tuần qua cao hơn dự báo của LSEG vào ngày 8/11, trong khi dự báo cho tuần này thấp hơn.

Dòng khí tới 7 nhà máy xuất khẩu LNG lớn của Mỹ đã tăng lên mức trung bình 14,1 bcfd từ đầu tháng 11 đến nay, tăng từ 13,7 bcfd trong tháng 10 và mức kỷ lục 14,0 bcfd trong tháng 4.

Kim loại: Vàng giảm tuần thứ 2 liên tiếp; đồng, nhôm cũng giảm mạnh; quặng sắt, thép tiếp tục tăng

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng hướng tới tuần giảm thứ hai liên tiếp khi nhu cầu trú ẩn an toàn giảm bớt sau phát biểu từ Chủ tịch Fed Jerome Powell.

Cụ thể, vàng giao ngay giảm 1,1% xuống 1.936,09 USD/ounce trong phiên 10/11 và giảm 2,8% trong tuần - mức giảm mạnh nhất trong 6 năm qua. Giá vàng kỳ hạn của Mỹ giảm 1,6% xuống 1.937,7 USD/ounce.

Vàng thỏi đã giảm khoảng 70 USD/ounce từ khi đạt mức hơn 2.000 USD/ounce vào tuần trước do căng thẳng leo thang ở Trung Đông.

Các quan chức Fed cho biết hôm thứ Năm (9/11) rằng họ vẫn không chắc chắn rằng lãi suất đã đủ cao để kết thúc cuộc chiến với lạm phát hay không.

Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ kỳ hạn 10 năm chuẩn và chỉ số đô-la hướng đến mức tăng hàng tuần khiến vàng không sinh lời kém hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư.

Về các kim loại quý khác, bạc giảm 1,8% xuống 22,21 USD/ounce; palladium giảm 2,8% xuống 964,25 USD/ounce - mức thấp nhất 5 năm; platinum giảm 2% về 842,34 USD/ounce, ghi nhận tuần giảm mạnh nhất kể từ giữa năm 2021.

Ở nhóm kim loại màu, giá hầu hết đều giảm trong phiên 10/11, sau những bình luận của các quan chức Fed báo hiệu có thể cần phải tăng lãi suất thêm để chống lạm phát.

Cụ thể, giá đồng giao sau ba tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,4% xuống 8.116 USD/tấn.

Trong khi đó, hợp đồng đồng giao tháng 12/2023 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) tăng 0,1% lên mức 67.230 CNY (tương đương 9.218,56 USD)/tấn và giảm 0,7% so với tuần trước, mức giảm hàng tuần lớn nhất kể từ ngày 13/10/2023.

Chỉ số USD đang hướng tới tuần tốt nhất kể từ ngày 21/7, khiến kim loại được định giá bằng “đồng bạc xanh” trở nên đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.

Lãi suất cao hơn thường cản trở tăng trưởng kinh tế, vốn tương quan với nhu cầu kim loại và có thể dẫn đến USD mạnh hơn.

Cũng trên sàn LME, giá nhôm giảm 0,6% xuống 2.229 USD/tấn; nikel giảm 1,1% xuống 17.615 USD/tấn; kẽm giảm 0,3% xuống 2.594 USD/tấn; chì giảm 0,4% xuống 2.180,50 USD/tấn; thiếc giảm 1,2% xuống 24.540 USD/tấn.

Trên sàn SHFE, giá nhôm giảm 0,5% xuống 19.100 CNY/tấn; nikel giảm 1,1% xuống 140.280 CNY/tấn; kẽm giảm 0,3% xuống 21.670 CNY/tấn; chì tăng 0,1% lên 16.505 CNY/tấn; thiếc giảm 0,5% xuống 209.240 CNY/tấn.

Ở nhóm kim loại đen, quặng sắt tiếp tục đà tăng tuần thứ ba liên tiếp, được hỗ trợ bởi những lo ngại về nguồn cung và tiếp tục hy vọng nhu cầu cải thiện từ nước tiêu dùng thép lớn nhất Trung Quốc - lĩnh vực bất động sản - sau một loạt tín hiệu tích cực.

Cụ thể, quặng sắt giao tháng 1/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên của Trung Quốc chốt phiên 10/11 tăng 2,56% lên 961,5 CNY (131,84 USD)/tấn - cao nhất kể từ tháng 8/2021.

Quặng sắt kỳ hạn tháng 12/2023 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 1,54% lên mức 127,1 USD/tấn - cao nhất kể từ ngày 21/3/2023.

Theo Pei Hao - nhà phân tích tại Công ty Môi giới FIS, đà tăng giá quặng sắt được thúc đẩy bởi kỳ vọng cắt giảm lãi suất hơn nữa để đảm bảo đủ thanh khoản, hỗ trợ cho lĩnh vực bất động sản và lo lắng về sự gián đoạn nguồn cung.

Trên sàn giao dịch Thượng Hải, giá thép cây tăng 0,65%; thép cuộn cán nóng tăng 0,91%; thanh thép tăng 0,55%; thép không gỉ giảm 0,41%.

Giá than cốc và than luyện cốc tăng lần lượt 1,78% và 2,14%.

Nông sản: Đậu tương tăng giá, đi ngược ngô và lúa mì

Giá ngô kỳ hạn ở Chicago giảm tuần thứ ba liên tiếp, khi các thương nhân phản ứng với dự báo của chính phủ rằng nông dân Mỹ sẽ sản xuất một vụ mùa lớn kỷ lục trong năm nay. Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) nâng ước tính vụ ngô niên vụ 2023-24 của nước này lên 15,234 tỷ giạ trong báo cáo hàng tháng, từ mức 15,064 tỷ giạ trong tháng 10.

Cụ thể, giá ngô kỳ hạn tháng 12/2023 tại Chicago Board of Trade (CBOT) giảm 4 cent xuống 4,64 USD/bushel. Tính chung cả tuần, hợp đồng này giảm 15-1/2 cent/bushel, tương đương giảm gần 2,8%.

Giá lúa mì cũng giảm do các quỹ hàng hóa bán ròng khá lớn hợp đồng lúa mì kỳ hạn Chicago, khiến thị trường dễ bị biến động. Cụ thể, lúa mì mùa đông đỏ mềm kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 5-1/2 cent xuống 5,75-1/4 USD/bushel.

Trong khi đó, giá đậu tương tăng nhờ hoạt động mua kỹ thuật, cụ thể đậu tương kỳ hạn tháng 1/2024 tăng 4 cent lên 13,47-1/2 USD/bushel.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường và cà phê giảm; cao su tăng cao nhất 2 tuần; ca cao lên đỉnh gần 45 năm

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 giảm 0,49 cent (-1,8%) về 27,29 cent/lb, kéo dài đà giảm của thị trường từ mức cao nhất trong 12 năm là 28,14 cent/lb thiết lập vào thứ Ba (ngày 7/11). Đường trắng kỳ hạn tháng 12/2023 cũng giảm 9,30 USD (-1,2%) về 747,30 USD/tấn.

Sản lượng đường ở miền Trung - Nam Brazil trong nửa cuối tháng 10/2023 đạt tổng cộng 2,35 triệu tấn, tăng 9,4% so với cùng kỳ năm ngoái - tập đoàn công nghiệp đường Brazil UNICA báo cáo hôm thứ Sáu (10/11).

Giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 3/2024 giảm 3,65 cent (-2,1%) xuống 1,7055 USD/lb, nhưng tăng khoảng 1% trong tuần. Cà phê robusta kỳ hạn tháng 1/2024 cũng giảm 9 USD (-0,4%) xuống 2.421 USD/tấn.

Các đại lý cho biết nguồn cung cà phê thắt chặt ngắn hạn đang tiếp tục dẫn đến sự sụt giảm dự trữ, từ đó tác động lên giá.

Giá ca cao kỳ hạn tại London trên sàn ICE tăng lên mức kỷ lục do nguồn cung thắt chặt. Cụ thể, ca cao kỳ hạn tháng 3/2024 tăng 50 pound (+1,5%) lên 3.476 pound/tấn, sau khi thiết lập mức cao kỷ lục 3.478 pound/tấn.

Giá ca cao kỳ hạn tháng 3/2024 tại New York tăng 42 USD (+1,1%) lên 4.014 USD/tấn, sau khi đạt đỉnh 4.035 USD/tấn - mức cao nhất gần 45 năm.

Giá ca cao đã tăng hơn 70% từ đầu năm 2023 đến nay, với vụ mùa kém ở Bờ Biển Ngà và Ghana sẽ dẫn đến thâm hụt toàn cầu năm thứ ba liên tiếp trong niên vụ 2023-2024.

Giá cao su kỳ hạn tại Nhật Bản tăng lên mức cao nhất trong 2 tuần do JPY yếu hơn, mặc dù các chỉ số giảm phát ở Trung Quốc đã hạn chế mức tăng. Cụ thể, hợp đồng cao su giao tháng 4/2024 trên Sàn giao dịch Osaka (OSE) tăng 1,8 yên (+0,7%) lên 264,3 yên (1,75 USD)/kg và tăng 2,1% trong tuần - mức tăng hàng tuần mạnh nhất kể từ ngày 13/10/2023.

Hợp đồng cao su trên giao tháng 1/2024 Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải tăng 125 CNY (+0,9%) lên 14.275 CNY(1.958,43 USD)/tấn.

Hợp đồng cao su giao tháng 12/2023 tại Sở giao dịch SICOM chốt phiên ở mức 148,2 cent Mỹ/kg, tăng 0,2%.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

Tin bài liên quan