Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 31/8-7/9: Giá dầu giảm thấp nhất gần 4 năm, kim loại đồng loạt giảm giá

Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 31/8-7/9: Giá dầu giảm thấp nhất gần 4 năm, kim loại đồng loạt giảm giá

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK Kết thúc tuần giao dịch đầu tiên trong tháng 9 (từ 31/8-7/9), giá dầu đã giảm mạnh về mức gần thấp nhất 4 năm là 71 USD/thùng , vàng cũng liên tục thoái lui trước ngưỡng cản kỷ lục 2.500 USD/ ounce. Ngoài ra, hầu hết các mặt hàng kim loại hay nguyên liệu công nghiệp cũng giảm giá trong tuần.

Năng lượng: Giá dầu giảm 10%

Giá dầu giảm sau khi dữ liệu việc làm của Mỹ yếu hơn dự kiến trong tháng 8/2024. Cụ thể, kết thúc phiên 7/9, giá dầu thô Brent giao sau giảm 1,63 USD (-2,24%) về 71,06 USD/thùng - mức thấp nhất kể từ tháng 12/2021; dầu thô WTI tương lai của Mỹ giảm 1,48 USD (-2,14%) về 67,67 USD - thấp nhất kể từ tháng 6/2023.

Tính cả tuần qua, dầu Brent giảm 10% và dầu WTI giảm khoảng 8%.

Dữ liệu của Chính phủ Mỹ cho thấy việc làm tăng ít hơn dự kiến trong tháng 8, nhưng tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống 4,2% thể hiện sự chậm lại của thị trường lao động không lớn, có thể khiến Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) không cắt giảm lãi suất lớn trong tháng 9 này.

Bên cạnh đó, những lo ngại xung quanh nhu cầu của Trung Quốc, cùng các tín hiệu cho thấy các phe phái đối địch của Libya có thể tiến gần hơn đến một thỏa thuận chấm dứt tranh chấp đã ngừng xuất khẩu dầu thô của nước này cũng gây áp lực lên giá dầu trong tuần qua.

Bank of America đã hạ dự báo giá dầu Brent cho nửa cuối năm 2024 xuống 75 USD/thùng từ mức gần 90 USD/thùng trước đó, hãng cho biết trong một lưu ý hôm thứ Sáu, với lý do tồn kho toàn cầu tăng, tăng trưởng nhu cầu yếu hơn và năng lực sản xuất dự phòng của OPEC+.

Kim loại: Hầu hết giảm giá

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giảm khỏi mức gần kỷ lục đạt được trước đó trong phiên, sau khi dữ liệu việc làm hỗn hợp của Mỹ làm dấy lên nghi ngờ về quy mô cắt giảm lãi suất từ Fed vào cuối tháng này.

Cụ thể, vàng giao ngay giảm 0,8% xuống 2.495,86 USD/ounce vào lúc 17h59 GMT, sau khi đạt mức cao nhất kể từ ngày 20/8/2024. Giá vàng kỳ hạn của Mỹ giảm 0,7% xuống 2.524,60 USD/ounce.

Một báo cáo của Bộ Lao động Mỹ cho biết, bảng lương phi nông nghiệp của nước này đã tăng 142.000 việc làm trong tháng Tám, so với ước tính 160.000 việc làm, theo các nhà kinh tế được Reuters thăm dò. Con số tháng 7 cũng được điều chỉnh xuống còn 89.000 việc làm. Tuy nhiên, tỷ lệ thất nghiệp đứng ở mức 4,2% - phù hợp với kỳ vọng, nhưng giảm 4,3% một tháng trước đó.

Các nhà giao dịch hiện nhận thấy 73% cơ hội Fed giảm lãi suất 25 điểm cơ bản (bp) trong tháng này và 27% cơ hội cắt giảm 50 điểm cơ bản, theo công cụ CME FedWatch. Chủ tịch Fed New York John Williams cho biết, việc hạ lãi suất sớm sẽ giúp giữ cho thị trường việc làm cân bằng.

Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 3,1% xuống 27,92 USD/ounce; platinum giảm 0,4% xuống 920,55 USD/ounce và palladium giảm 3,1% xuống 913USD/ounce.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng giao sau 3 tháng trên Sàn Giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,1% xuống 9.081 USD/ tấn và hợp đồng đồng giao tháng 10/2024 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn Giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) tăng 0,7% lên 72.420 CNY (10.218,13 USD)/tấn.

Như vậy, đồng LME có tuần giảm thứ hai liên tiếp với mức giảm khoảng 1,5% và đồng SHFE cũng giảm trong tuần.

Các nhà phân tích tại Citigroup dự báo, giá đồng trong 3 tháng tới ở mức 9.500 USD/tấn; nhôm là 2.500 USD/tấn và kẽm là 2.800 USD/tấn, đồng thời cho biết thêm rằng, mối đe dọa về thuế quan thương mại mới hoặc tăng cao hơn từ khả năng ông Donald Trump trở thành Tổng thống Mỹ có thể ngăn cản nhu cầu phục hồi.

Cũng trên sàn LME, giá nikel giảm 0,4% về 16.010 USD/tấn; kẽm giảm 0,7% xuống 2.781 USD/tấn; chì giảm 0,4% xuống 1.988 USD/tấn và thiếc giảm 0,6% xuống 30.595 USD/tấn; trong khi giá nhôm không đổi ở mức 2.378,5 USD//tấn.

Còn trên sàn SHFE, giá nhôm giảm 0,5% về 19.250 CNY/tấn; nikel giảm 1% về 123.750 CNY/tấn; kẽm giảm 2,4% về 22.615 CNY/tấn; chì giảm 1,5% về 16.835 CNY/tấn và thiếc gần như không đổi ở mức 248.920 CNY/tấn.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn Đại Liên giảm phiên thứ sáu liên tiếp và ghi nhận mức giảm hàng tuần lớn nhất trong gần 2 năm, khi dữ liệu kinh tế mềm của Trung Quốc đè nặng lên triển vọng nhu cầu.

Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 1/2025 trên Sàn Giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc chốt phiên 7/9 giảm 1,9% xuống 671,5 CNY (94,72 USD)/tấn. Hợp đồng này đã giảm 11,24% trong tuần qua - mức giảm hàng tuần lớn nhất kể từ ngày 28/10/2022.

Hợp đồng quặng sắt chuẩn tháng 10/2024 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 0,74% xuống 90,35 USD/tấn.

Trên sàn SHFE, giá thép cuộn cán nóng giảm gần 2,8%; thép cây giảm 2,67%; thanh thépthép không gỉ đều giảm khoảng 0,5%.

Nông sản: Giữ được đà tăng giá

Giá đậu tương kỳ hạn Chicago giảm do kỳ vọng cắt giảm lãi suất lớn của Mỹ và hoạt động chốt lời sau một đợt tăng vào đầu tuần do các nhà đầu cơ nới lỏng các vị thế bán khống lớn, các nhà giao dịch cho biết.

Giá lúa mì và ngô kỳ hạn cũng giảm khi các quỹ tìm kiếm lợi nhuận và chờ đợi 2 báo cáo của Bộ Nông nghiệp Mỹ sẽ được công bố trong tuần nay. Tuy nhiên, cả 3 mặt hàng này vẫn tăng trong tuần.

Cụ thể, hợp đồng lúa mì tại Chicago giảm 7-3/4 cent xuống 5,67 USD/bushel nhưng tăng 2,8% trong tuần; đậu tương CBOT giảm 18-1/2 cent xuống 10,05 USD/bushel nhưng tăng 0,5% trong tuần; ngô giảm 4-1/2 cent xuống 4,06-1/4 USD/bushel và tăng nhẹ trong tuần.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường, cà phê, ca cao cùng giảm mạnh; cao su diễn biến trái chiều

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 giảm 0,31 cent (-1,6%) xuống 18,91 cent/lb trong phiên 7/9 và giảm 2,4% trong tuần qua. Đường trắng cùng kỳ hạn cũng giảm 0,7% xuống 533 USD/tấn.

Ấn Độ có kế hoạch gia hạn lệnh cấm xuất khẩu đường năm thứ 2 liên tiếp khi nước tiêu thụ chất làm ngọt lớn nhất thế giới vật lộn với triển vọng sản lượng mía thấp hơn. Tuy nhiên, dự báo mưa ở Brazil được coi là nguyên nhân khiến giá giảm vì có thể cải thiện vụ mùa năm tới.

Giá cà phê kỳ hạn trên sàn ICE đóng cửa giảm mạnh do áp lực xuất khẩu toàn cầu cao và dự báo mưa ở Brazil. Cụ thể, cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2024 giảm 141 USD (-2,9%) xuống 4.770 USD/tấn khi thị trường rút lui khỏi mức đỉnh 5.180 USD/tấn của tuần trước nữa, đây là mức cao nhất trong ít nhất 16 năm. Hợp đồng này mất 4% trong tuần.

Tương tự, cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2024 giảm 3,4% xuống 2,36 USD/lb, giảm 3,3% hàng tuần. Việt Nam đã xuất khẩu 1,05 triệu tấn cà phê trong 8 tháng đầu năm 2024, giảm 12,5% so với một năm trước đó.

Giá ca cao London kỳ hạn tháng 12/2024 tăng 7 pound (+0,1%) lên 5.257 pound/tấn trong ngày 7/9. Giá mặt hàng này đã giảm xuống mức thấp nhất trong 6,5 tháng là 4.975 bảng Anh/tấn vào ngày 5/9 với triển vọng tăng sản lượng ở Tây Phi trong mùa vụ 2024-2025 sắp tới khiến giá bị kìm hãm.

Trong khi đó, giá ca cao New York cùng kỳ hạn giảm 1,1% xuống 7.081 USD/tấn và giảm 8% trong tuần.

Giá cao su kỳ hạn của Nhật Bản tăng trong phiên 7/9 để cắt đứt chuỗi giảm 4 phiên liên tục, được thúc đẩy bởi sự gián đoạn nguồn cung và giá cao su tổng hợp vững chắc hơn, nhưng vẫn ghi nhận mức giảm hàng tuần lớn nhất trong gần 6 tháng trong bối cảnh bất ổn kinh tế toàn cầu.

Cụ thể, trên sàn Osaka Exchange (OSE), hợp đồng cao su giao tháng 2/2025 đóng cửa tăng 2,3 JPY (+0,66%) lên 349,8 JPY (2,46 USD)/kg. Hợp đồng này giảm 6,87% trong tuần - mức giảm hàng tuần lớn nhất kể từ ngày 22/3/2024.

Trên sàn SHFE, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 1/2024 tăng 360 CNY (+2,22%) lên 16.545 CNY (2.334,89 USD)/tấn.

Cơ quan khí tượng Thái Lan cảnh báo mưa to đến rất to có thể gây lũ quét từ ngày 6-12/9.

Theo đó, hợp đồng cao su butadiene giao tháng 10/2024 tích cực nhất trên sàn SHFE tăng 205 CNY (+1,39%) lên 14.935 CNY (2.107,68 USD)/tấn. Hợp đồng cao su cùng kỳ hạn trên sàn SICOM của Singapore tăng 2% lên 180,5 US cent/kg,

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).
Tin bài liên quan