Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 30/9-710: Giá dầu, kim loại và nông sản cùng giảm mạnh, đường tiệm cận mức đỉnh 12 năm

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 30/9-7/10, thị trường hàng hóa thế giới ghi nhận sự biến động mạnh khi giá dầu, kim loại, nông sản đều ghi nhận mức giảm mạnh nhất trong nhiều tháng, trong khi đường tiệm cận mức đỉnh lịch sử 12 năm…
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 30/9-710: Giá dầu, kim loại và nông sản cùng giảm mạnh, đường tiệm cận mức đỉnh 12 năm

Năng lượng: Giá dầu giảm mạnh nhất 7 tháng, khí tự nhiên tăng mạnh nhất 9 tháng

Giá dầu thế giới tăng trong phiên 6/10, nhưng vẫn ghi nhận mức giảm hàng tuần mạnh nhất kể từ tháng 3/2023, sau khi Nga dỡ bỏ một phần lệnh cấm xuất khẩu nhiên liệu làm tăng thêm lo ngại về nhu cầu do những khó khăn kinh tế vĩ mô.

Cụ thể, giá dầu Brent tăng 51 cent lên 84,58 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) tăng 48 cent lên 82,79 USD/thùng. Tuy nhiên, cả tuần, giá dầu Brent giảm khoảng 11% và dầu WTI giảm hơn 8%.

Theo thống kê của Bộ Lao động Mỹ, tăng trưởng việc làm của nước này đã tăng thêm 336.000 việc làm trong tháng 9, vượt xa dự báo trước đó (tăng 170.000).

USD mạnh thường tác động tiêu cực đến nhu cầu dầu, khiến hàng hóa đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.

Nga tuyên bố đã dỡ bỏ lệnh cấm xuất khẩu dầu diesel đối với nguồn cung cấp đến các cảng bằng đường ống. Các công ty vẫn phải bán ít nhất 50% sản lượng diesel cho thị trường nội địa.

Liên quan tới nguồn cung tương lai, số giàn khoan dầu của Mỹ đã giảm 5 giàn xuống 497 giàn trong tuần này, con số thấp nhất kể từ tháng 2/2022 - Công ty Dịch vụ năng lượng Baker Hughes BKR.O cho biết vào ngày 9/10.

Cùng ngày, Ủy ban Giao dịch hàng hóa tương lai Hoa Kỳ (CFTC) cho hay, các nhà quản lý tiền tệ đã cắt giảm vị thế mua ròng hợp đồng tương lai và quyền chọn dầu thô Mỹ trong tuần tính đến ngày 3/10/2023 thêm 5.877 hợp đồng, xuống còn 279.759.

Trong khi đó, giá khí tự nhiên tại Mỹ bật tăng trong phiên 6/10 và ghi nhận tuần tăng mạnh nhất trong 9 tháng qua do sản lượng giảm, xuất khẩu tăng, thời tiết mát hơn và nhu cầu sưởi ấm tăng.

Cụ thể, giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn New York tăng 17,2 US cent (+5,4%) lên 3,338 USD/mmBTU và cả tuần tăng 14% - mức cao nhất kể từ ngày 23/1/2023.

Kim loại: Đồng loạt lao dốc

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng hồi trở lại trong phiên giao dịch thứ Sáu (9/10) sau chuỗi giảm 9 phiên liên tiếp, song số liệu việc làm của Mỹ tăng mạnh dấy lên mối lo ngại về 1 đợt tăng lãi suất khác và khiến vàng thỏi có tuần giảm thứ 2 liên tiếp.

Cụ thể, vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 0,6% lên 1.831,09 USD/ounce, song cả tuần vẫn giảm 0,9% - tuần giảm thứ 2 liên tiếp; vàng kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn New York tăng 0,7% lên 1.845,2 USD/ounce.

Lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ có tuần tăng, ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của vàng.

Giá một số kim loại quý khác cũng giảm trong tuần: Bạch kim giảm 3,76% xuống 881,5 USD/ounce - mức thấp nhất 11 tháng; bạc giảm 3,24% xuống 21,72 USD/ounce - mức thấp nhất 7 tháng.

Ở nhóm kim loại cơ bản, trong phiên giao dịch 6/10, đồng giảm giá và đang trên đà giảm hàng tuần mạnh nhất trong gần 11 tháng, do USD vững và hàng tồn kho cao gây áp lực lên giá.

Cụ thể, giá đồng giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,1% xuống 7.888,50 USD/tấn và giảm 4,6% trong tuần, được coi là hiệu suất hàng tuần tồi tệ nhất kể từ tuần kết thúc vào ngày 18/11/2022.

Chỉ số USD được thiết lập cho tuần tăng thứ 12 liên tiếp, khiến kim loại được định giá bằng “đồng bạc xanh” trở nên đắt hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.

Tồn kho đồng tăng lên 169.900 tấn, cao nhất kể từ tháng 5/2022.

Giá một số kim loại cơ bản khác: Nhôm tăng 0,2% lên 2.236 USD/tấn, phục hồi sau 4 phiên giảm liên tiếp, nhưng cả tuần vẫn giảm 4,7% - hướng tới mức giảm hàng tuần lớn nhất kể từ ngày 10/2/2023.

Giá nikel giảm 0,7% về 18.355 USD/tấn, kéo dài mức giảm sang phiên thứ tư liên tiếp. Hợp đồng này được thiết lập cho tuần giảm thứ năm liên tiếp.

Giá kẽm giảm 0,3% xuống 2.470 USD/tấn. Kẽm giảm vào các ngày giao dịch trong tuần và đang trên đà hướng tới mức giảm hàng tuần lớn nhất kể từ tuần kết thúc vào ngày 16/12/2022.

Giá thiếc giữ nguyên ở mức 24.139 USD/tấn. Đây là hợp đồng duy nhất ấn định mức tăng hàng tuần trong nhóm kim loại cơ bản trên sàn LME, tăng 0,8%.

Nông sản: Giá lúa mì thấp nhất 3 năm, đậu tương và ngô cũng giảm

Giá đậu tương, ngô và lúa mì cùng giảm do hoạt động bán ra chốt lời sau khi giá tăng mạnh phiên trước đó và dự báo thời tiết thuận lợi cho vụ thu hoạch.

Cụ thể, trên sàn Chicago, giá đậu tương kỳ hạn tháng 11/2023 giảm 1,2% về 12,66 USD/bushel. Ngô kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 1,1% về 4,92 USD/bushel, sau khi đạt mức 4,99 USD/bushel - cao nhất hơn 1 tháng. Giá lúa mì đỏ, mềm vụ đông kỳ hạn tháng 12/2023 giảm 10 US cent về 5,68-1/4 USD/bushel.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường tiệm cận mức cao lịch sử 12 năm, giá dầu thực vật giảm, cà phê và cao su biến động trái chiều.

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn ICE tăng 0,23 cent (+0,9%) lên 26,16 US cent/lb. Giá đường trắng kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn London tăng 6,1 USD (+0,9%) lên 697,3 USD/tấn.

Các đại lý cho biết, giá đường đang ở mức cao nhất lịch sử, gần mức cao nhất 12 năm, do nguồn cung toàn cầu thắt chặt, bất chấp đồng real Brazil suy yếu, trong khi lo ngại về tăng trưởng kinh tế vẫn duy trì đà tăng.

Sản lượng đường trắng của Đức trong niên vụ mới 2023/24 được dự báo sẽ đạt 4,36 triệu tấn, tăng khoảng 12,9% so với niên vụ trước.

Cục Nông nghiệp Nước ngoài (FAS) của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) cho biết, sản lượng đường của EU dự kiến tăng 3% lên 15,4 triệu tấn trong niên vụ 2023/2024, do diện tích trồng củ cải đường ở Pháp giảm so với các quốc gia thành viên khác.

FAS cho biết, Ấn Độ dự kiến sản xuất 33,6 triệu tấn đường trắng trong niên vụ 2023/2024 - một mức cung có thể không đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ. FAS cũng hạ dự báo sản lượng đường của Thái Lan trong niên vụ này xuống 15%.

Giá cà phê arabica trên sàn ICE chạm mức thấp nhất 9 tháng, chịu áp lực giảm bởi đồng real Brazil suy yếu, lo ngại về nhu cầu và thời tiết ôn hòa tại Brazil.

Cụ thể, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2023 trên sàn ICE tăng 0,65 US cent (+0,4%) lên 1,4605 USD/lb, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ đầu tháng 1/2023 (1,4445 USD/lb) trong đầu phiên giao dịch.

Ngược lại, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn London giảm 0,8% về 2.359 USD/tấn, sau khi chạm mức thấp nhất 6 tháng (2.323 USD/tấn) trong đầu phiên.

Giá cao su tại Nhật Bản tăng do giá dầu tăng, song xu hướng kinh tế suy giảm và số liệu tiền lương suy yếu đã hạn chế đà tăng.

Cụ thể, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn Osaka tăng 1,3 JPY (+0,6%) lên 231 JPY (1,55 USD)/kg.

Giá cao su kỳ hạn tháng 11/2023 trên sàn Singapore giảm 0,1% xuống 138,4 US cent/kg.

Giá cao su tự nhiên thường chịu sự điều chỉnh của giá dầu, khi cạnh tranh thị phần với cao su tổng hợp được sản xuất từ dầu thô. Số liệu của Chính phủ Nhật Bản cho biết, tiền lương thực tế của nước này trong tháng 8/2023 giảm tháng thứ 17 liên tiếp do giá cả tăng liên tục, vượt xa mức lương.

Trong đầu phiên giao dịch 6/10, hợp đồng dầu cọ giao tháng 12/2023 trên sàn Bursa Malaysia giảm 0,42% xuống 3.593 ringgit (761,71 USD)/tấn. Giờ nghỉ trưa, hợp đồng này ở mức 3.602 ringgit (763,62 USD)/tấn.

Tính chung cả tuần, hợp đồng này giảm 4,4% sau khi tăng 2,3% trong tuần trước nữa, đồng thời giảm 6,06% trong tháng 9 so với tháng trước đó - sau khi ghi nhận 2 tháng tăng liên tiếp.

Trên sàn Chicago, giá dầu đậu tương cũng giảm nhẹ 0,07%. Giá dầu cọ chịu ảnh hưởng bởi giá dầu có liên quan khi cạnh tranh thị phần trên thị trường dầu thực vật toàn cầu.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

Tin bài liên quan