Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 29/6-6/7: Đồng loạt tăng giá

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ cuối cùng của tháng 6/2024 ( từ 29/6-6/7), hầu hết các mặt hàng trên thị trường hàng hóa thế giới đều tăng giá, trong đó vàng lên cao nhất trong hơn 1 tháng qua.
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 29/6-6/7: Đồng loạt tăng giá

Năng lượng: Giá dầu tăng, đi ngược với khí đốt

Trên thị trường dầu mỏ, giá mặt hàng dầu thô Brent kỳ hạn giảm 89 cent (-1,02%) xuống 86,54 USD/thùng vào thứ Sáu (5/7), sau khi đạt mức cao nhất kể từ tháng 4/2024 trong phiên. Dầu thô Mỹ (WTI) giảm 72 cent (-0,9%) xuống 83,16 USD/thùng.

Tuy nhiên, tính cả tuần, giá dầu Brent tăng 0,4% và dầu WTI tăng 2,1%.

Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) đã báo cáo lượng tồn kho giảm 12,2 triệu thùng trong tuần trước lớn hơn nhiều so với dự kiến, so với kỳ vọng của các nhà phân tích về mức giảm 700.000 thùng.

Các giàn khoan dầu lớn của Mexico dự kiến sẽ không bị ảnh hưởng bởi cơn bão, nhưng các dự án dầu mỏ ở vùng biển phía Bắc Mỹ có thể bị gián đoạn nếu cơn bão tiếp tục đi theo đường đi dự kiến.

Trong khi đó, khả năng Mỹ sắp cắt giảm lãi suất đang đến gần làm tăng kỳ vọng về nhu cầu dầu mỏ.

Tăng trưởng việc làm của Mỹ chậm lại trong tháng 6, nhưng tỷ lệ thất nghiệp tăng lên mức cao hơn 2,5 năm là 4,1% và lương tăng vừa phải cho thấy các điều kiện thị trường lao động đang nới lỏng và có thể khiến lãi suất giảm. Lãi suất thấp hơn có thể thúc đẩy hoạt động kinh tế và tăng nhu cầu dầu thô.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng tại Mỹ giảm hơn 4% xuống mức thấp nhất trong 7 tuần vào thứ Sáu (5/7), do sản lượng tăng và nguồn cung cấp khí đốt dồi dào trong kho dự trữ vượt xa sự hỗ trợ từ dự báo về nhu cầu cao hơn trong 2 tuần tới.

Cụ thể, giá khí đốt giao tháng 8/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York giảm 9,5 cent xuống 2,319 USD/mmBtu và cả tuần giảm gần 11% - mức giảm hàng tuần lớn nhất kể từ giữa tháng 2/2024.

Công ty Tài chính LSEG dự báo, sản lượng khí đốt tại 48 tiểu bang của Mỹ tăng lên mức trung bình 102,1 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) trong tháng 6/2024. Sản lượng của Mỹ đạt mức cao kỷ lục hàng tháng là 105,5 bcfd vào tháng 12/2023.

Với thời tiết nóng hơn dự kiến vào tuần tới, LSEG dự báo nhu cầu khí đốt tại 48 tiểu bang, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ tăng lên 106,8 bcfd vào tuần tới, từ mức 105,9 bcfd trong tuần này.

Dữ liệu từ EIA cho thấy, các cơ sở tiện ích đã bổ sung 32 tỷ feet khối (bcf) khí đốt vào kho dự trữ trong tuần kết thúc vào ngày 29/6/2024. Dự trữ khí đốt hiện cao hơn khoảng 19% so với bình thường vào thời điểm này trong năm.

Kim loại: Giá vàng lên cao nhất hơn 1 tháng; đồng cùng quặng sắt, thép cũng tăng

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tăng vào thứ Sáu (5/7) lên mức cao nhất hơn 1 tháng sau dữ liệu việc làm quan trọng của Mỹ cho thấy thị trường lao động đang yếu đi, nâng kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) sẽ hạ lãi suất vào tháng 9 tới.

Cụ thể, vàng giao ngay kết thúc phiên tăng 1,3% lên 2.385,63 USD/ounce và tính chung cả tuần, giá vàng thỏi tăng hơn 2%. Vàng Mỹ kỳ hạn tương lai tăng 1,2% lên 2.397,7 USD/ounce.

Dữ liệu cho thấy, bảng lương trong lĩnh vực phi nông nghiệp của Mỹ đã tăng thêm 206.000 việc làm trong tháng 6, cao hơn một chút so với 190.000 việc làm mới mà các nhà kinh tế tham gia khảo sát của Reuters ước tính. Trong khi đó, mức tăng trưởng việc làm ước tính trong tháng 5 đã được điều chỉnh giảm xuống 218.000 việc làm mới từ con số 272.000 trước đó. Tỷ lệ thất nghiệp tăng lên 4,1%, cao hơn một chút so với ước tính 4%.

Về những kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,2% xuống 30,409 USD/ounce, trong khi bạch kim tăng 1,6% lên 1.012,50 USD/ounce. Giá palladium giảm 0,5% xuống 1.024,66 USD/ounce, sau khi đạt mức cao nhất kể từ giữa tháng 4/2024 trong phiên 4/7.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng ổn định khi các nhà đầu tư cân bằng 2 yếu tố: Sự lạc quan về khả năng Mỹ cắt giảm lãi suất và mối lo ngại về hàng tồn kho cao cùng nhu cầu mờ nhạt ở Trung Quốc.

Cụ thể, giá đồng kỳ hạn ba tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) kết thúc phiên 5/7 tăng 0,1% lên 9.878 USD/tấn và tăng 2% trong phiên trước đó - mức tăng hàng ngày lớn nhất kể từ ngày 6/6/2024. Tuy nhiên, nếu so với mức cao kỷ lục 11.104,5 USD/tấn xác định vào ngày 20/5/2024 thì giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên LME hiện giảm 11%.

Giá đồng kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn Comex tăng 0,8% lên 4,57 USD/lb.

Tồn kho đồng trên sàn LME đã tăng 80% kể từ giữa tháng 5/2024 lên 186.275 tấn. Tồn kho tại các kho của Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải đã giảm nhẹ trong những tuần gần đây, nhưng vẫn gấp 10 lần mức hồi đầu năm.

Giá kẽm trên sàn LME phiên này giảm 0,1% xuống 2.988,50 USD/tấn sau khi chạm mức cao nhất trong 5 tuần trước đó. Kim loại chủ yếu được sử dụng để mạ thép này được hỗ trợ bởi xu hướng tăng giá trên thị trường kim loại đen, nơi quặng sắt đạt mức cao nhất trong một tháng.

Về những kim loại cơ bản khác trên sàn LME, giá nhôm giảm 0,8% xuống 2.527 USD/tấn; niken giảm 0,3% xuống 17.265 USD/tấn; thiếc giảm 0,3% xuống 33.260 USD/tấn; trong khi chì tăng 0,2% lên 2.227 USD/tấn.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt tăng phiên thứ 5 liên tiếp, lấy lại gần như những gì đã mất trong tháng 6 nhờ nhu cầu ngắn hạn mạnh mẽ, các yếu tố cơ bản về thép được cải thiện, USD giảm và hy vọng về việc Trung Quốc sẽ gia tăng kích thích kinh tế.

Cụ thể, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc kết thúc phiên tăng gần 1,8% lên 864,5 CNY (118,89 USD)/tấn. Trong phiên, có lúc giá chạm mức cao nhất kể từ ngày 31/5/2024 là 870 CNY/tấn.

Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 8/2024 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 0,3% lên 113,75 USD/tấn - mức cao nhất kể từ ngày 3/6/2024.

Giá thép trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) đồng loạt tăng: Thép cây tăng 0,9%; thép cuộn cán nóng tăng gần 0,6%; thép thanh tăng 0,1% và thép không gỉ tăng 0,3%.

Hỗ trợ giá thép tăng là kỳ vọng dai dẳng về việc có thêm nhiều biện pháp kích thích ở Trung Quốc vào cuối tháng 7 này. Ngoài ra, các yếu tố cơ bản của thép xây dựng được cải thiện, cùng với nhu cầu tăng và lượng hàng tồn kho tiếp tục giảm cũng thúc đẩy tâm lý chung, các nhà phân tích tại Huatai Futures cho biết.

Nông sản: Giá đồng loạt bật tăng

Hợp đồng lúa mì kỳ hạn tương lai của Ủy ban Thương mại Chicago tăng vọt vào thứ Sáu (5/7) trong bối cảnh nhu cầu đối với lúa mì Mỹ tăng do USD yếu đi và xuất khẩu tăng. Giá ngô và đậu tương kỳ hạn cũng tăng do lo ngại thời tiết khô nóng làm gián đoạn vụ mùa ở Mỹ trong thời kỳ trồng trọt quan trọng.

Cụ thể, trên sàn CBOT, giá lúa mì đỏ mềm vụ Đông tăng 16-1/2 US cent lên 5,90-1/2 USD/bushel. Đậu tương kỳ hạn tháng 11/2024 - hợp đồng được giao dịch nhiều nhất - tăng 8-1/4 cent lên 11,29-3/4 USD/bushel; ngô kỳ hạn tháng 12/2024 cũng tăng 4,5 cent lên 4,24 USD/bushel.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường, cà phê và dầu cọ tăng, cao su diễn biến trái chiều

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường trắng kỳ hạn tháng 8/2024 tăng 1,3% lên mức 583,20 USD/tấn. Các đại lý cho biết, tồn kho đường tại Ấn Độ bắt đầu tăng cao, làm gia tăng áp lực lên chính phủ về việc cần phải cho phép xuất khẩu.

Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn London tăng 46 USD lên 4.199 USD/tấn. Giá cà phê arabica giao cùng kỳ hạn trên sàn New York tăng 4,75 cent lên 228,95 US cent/lb. Như vậy, trong tuần qua, giá robusta đã tăng tổng cộng 188 USD/tấn, còn arabica tăng 2,15 cent/lb.

Đồng real Brazil mất giá đến 5,87% trong tháng 6/2024 so với USD, cũng như lo ngại về sản lượng cà phê của Brazil sụt giảm, khiến các nhà rang xay đẩy mạnh thu mua dự trữ, qua đó giúp giá cà phê arabica liên tục tăng, dù đang trong vụ thu hoạch rộ.

Giá cao su kỳ hạn trên thị trường Nhật Bản giảm phiên thứ tư liên tiếp vào ngày 5/7 do được hỗ trợ bởi đồng Yên mạnh lên. Bên cạnh đó, giá cao su tại nhà sản xuất hàng đầu Thái Lan giảm cũng góp phần gây áp lực lên thị trường.

Cụ thể, hợp đồng cao su giao kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn giao dịch Osaka (OSE) giảm 4,8 JPY (-1,48%) xuống 319,3 JPY (1,99 USD)/kg.

Hợp đồng cao su giao kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn SHFE giảm 115 CNY (-0,78%) xuống 14.610 CNY (2.010,21 USD)/tấn.

Giá tấm cao su hun khói xuất khẩu chuẩn của nhà sản xuất hàng đầu Thái Lan (RSS3) RUB-RSS3C-BKK và cao su khối RUB-STR20C-BKK giảm lần lượt 1,86% và 1,46% xuống tương ứng 72,48 baht (1,99 USD)/kg và 64,82 baht (1,78 USD)/kg.

Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn SICOM của Singapore chốt ở 164 US cent/kg, tăng 0,3%.

Cơ quan khí tượng Thái Lan cảnh báo mưa lớn có thể gây lũ quét từ ngày 9-13/7/2024.

Đồng Yên giảm 0,07% so với USD, xuống mức 160,7 JPY đổi 1 USD, giảm từ mức cao nhất 161,96 JPY/USD trước đó. JPY suy yếu khiến các tài sản định giá bằng đồng tiền này trở nên phải chăng hơn đối với các khách hàng nước ngoài.

Cao su tự nhiên thường chịu sự điều chỉnh của giá dầu khi cạnh tranh thị phần với cao su tổng hợp được sản xuất từ dầu thô. Đầu phiên giao dịch châu Á, giá dầu ít thay đổi, khi các nhà đầu tư tập trung vào sự gián đoạn nguồn cung năng lượng do bão nhiệt đới Beryl.

Giá dầu cọ kỳ hạn tại Malaysia giảm theo giá dầu thực vật cạnh tranh trên sàn Đại Liên (DCE), nhưng có tuần tăng thứ hai liên tiếp trong bối cảnh lo ngại sản lượng sụt giảm.

Cụ thể, hợp đồng dầu cọ FCPOc3 giao tháng 9/2024 trên sàn Bursa, Malaysia giảm 7 ringgit (-0,17%) xuống 4.060 ringgit (862,73 USD)/tấn trong phiên 5/7, song vẫn tăng 3,58% trong tuần qua.

Trên sàn DCE, giá dầu đậu tương giảm 0,62% và dầu cọ giảm 0,37%. Sàn CBOT đóng cửa nghỉ lễ Độc lập. Giá dầu cọ chịu ảnh hưởng bởi giá dầu có liên quan khi cạnh tranh thị phần trên thị trường dầu thực vật toàn cầu.

Theo khảo sát của Reuters, tồn kho dầu cọ ở Malaysia, nước sản xuất lớn thứ hai thế giới, tăng tháng thứ ba liên tiếp trong tháng 6/2024 do xuất khẩu chậm lại, trong khi sản lượng giảm so với tháng trước.

Ước tính trung bình của 12 thương nhân, chủ đồn điền và nhà phân tích được Reuters khảo sát cho thấy, tồn kho dầu cọ của Malaysia đạt 1,83 triệu tấn, tăng 4,53% so với cuối tháng 5/2024. Dữ liệu cụ thể sẽ được Uỷ ban Dầu cọ Malaysia công bố vào ngày 10/7 tới.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).
Tin bài liên quan