Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 28/2-8/3: Giá vàng vẫn thẳng tiến, dầu và khí giảm mạnh

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch đầu tiên của tháng 3 (từ 28/2-8/3), thị trường hàng hóa thế giới tiếp tục ghi nhận đà giảm giá ở hầu hết các mặt hàng, trong khi vàng vẫn thẳng tiến.
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 28/2-8/3: Giá vàng vẫn thẳng tiến, dầu và khí giảm mạnh

Năng lượng: Giá dầu giảm gần 4%, khí LNG cũng mất hơn 3%

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thế giới tăng vào thứ Sáu (7/3) nhưng vẫn giảm trong tuần do lo ngại về tăng trưởng nhu cầu, trong khi các nhà sản xuất lớn chuẩn bị tăng sản lượng.

Cụ thể, chốt phiên 7/3, giá dầu thô Brent tăng 0,9 USD (+1,3%) lên 70,36 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) tăng 0,68 USD (+1%) lên 67,04 USD. Tuy nhiên, trong tuần, dầu Brent vẫn giảm 3,9% - mức giảm hàng tuần lớn nhất kể từ ngày 11/11/2024; dầu WTI cũng giảm tới 4% - tuần giảm mạnh nhất kể từ ngày 21/1/2025.

Vào thứ Năm, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã đình chỉ mức thuế 25% mà ông đã áp dụng đối với hầu hết hàng hóa từ Canada và Mexico cho đến ngày 2/4/2025, mặc dù thuế thép và nhôm vẫn có hiệu lực vào ngày 12/3/2025 theo đúng lịch trình. Sắc lệnh sửa đổi không bao gồm đầy đủ các sản phẩm năng lượng của Canada, vốn đang chịu mức thuế riêng là 10%.

Giá dầu Brent vào thứ Tư đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 12/2021 sau khi lượng dầu thô tồn kho của Mỹ tăng và sau quyết định của Tổ chức Các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPCE) và các đồng minh, được gọi là OPEC+, về việc tăng hạn ngạch sản lượng. Nhóm cho biết đã quyết định tăng sản lượng theo kế hoạch vào tháng 4/2025, bổ sung thêm 138.000 thùng mỗi ngày vào thị trường.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ giảm do sản lượng kỷ lục và báo cáo của liên bang cho thấy lượng dự trữ giảm trong tuần trước nhỏ hơn dự kiến. Cơ quan Thông tin Năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, các công ty năng lượng đã rút 80 tỷ feet khối (bcf) khí đốt ra khỏi kho trong tuần kết thúc vào ngày 28/2/2025.

Cụ thể, giá LNG tương lai giao tháng 4/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York giảm 14,8 cent (-3,3%) xuống 4,302 USD/mmBtu. Vào thứ Tư, hợp đồng đóng cửa ở mức cao nhất kể từ tháng 12/2022 trong ngày thứ hai liên tiếp.

Giá khí đốt tăng vọt vào đầu tuần qua do lưu lượng kỷ lục đến các nhà máy xuất khẩu LNG và lo ngại Canada sẽ giảm xuất khẩu điện và khí đốt sang Mỹ sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump áp thuế đối với Canada và Mexico vào ngày 4/3. Trong năm 2024, Canada cung cấp khoảng 8% tổng lượng khí đốt và khoảng 1% tổng nhu cầu điện của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu.

Theo dữ liệu của LSEG, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã tăng lên 105,8 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) cho đến nay trong tháng 3, tăng so với mức kỷ lục 105,1 bcfd vào tháng 2.

LSEG dự báo nhu cầu khí đốt trung bình ở 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ giảm từ 119,2 bcfd trong tuần này xuống 111,0 bcfd vào tuần tới.

Lượng khí đốt chảy vào 8 nhà máy xuất khẩu LNG lớn của Mỹ đã tăng lên mức trung bình 15,7 bcfd cho đến nay trong tháng 3, tăng từ mức kỷ lục 15,6 bcfd vào tháng 2.

Kim loại: Giá đồng loạt giảm, trừ vàng

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giảm trong phiên 7/3 nhưng ghi nhận tuần tăng do nhu cầu trú ẩn an toàn và báo cáo việc làm trong tháng 2 tiết lộ tăng trưởng thấp hơn dự kiến, cho thấy Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đang trên đà cắt giảm lãi suất trong năm nay.

Cụ thể, vàng giao ngay giảm 0,1% xuống 2.906,04 USD/ounce trong phiên 7/3, nhưng tăng 1,7% trong tuần do chính sách thuế thay đổi liên tục của Tổng thống Mỹ làm gia tăng sự bất ổn. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 4/2025 giảm 0,4% xuống 2.914,1 USD/ounce.

Chỉ số USD-Index giảm xuống mức thấp nhất 4 tháng và hướng tới tuần giảm mạnh nhất kể từ tháng 11/2022, khiến vàng định giá bằng “đồng bạc xanh” rẻ hơn cho khách mua nước ngoài.

Một báo cáo của Bộ Lao động cho thấy, kinh tế Mỹ bổ sung 151.000 việc làm trong tháng 2 so với tăng 160.000 việc theo dự đoán của giới phân tích trong thăm dò của Reuters, trong khi tỷ lệ thất nghiệp ở mức 4,1% so với dự đoán 4%.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng giảm do số liệu thương mại yếu từ Trung Quốc, việc bán ra của các công ty khai thác và do nhà đầu tư giảm vị thế trong bối cảnh chính sách thuế quan của Mỹ có những thay đổi bất ổn.

Cụ thể, đồng giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 1,7% xuống 9.572 USD/tấn, trong khi đồng Comex của Mỹ giảm 2,6% xuống 4,68 USD/lb.

Đồng LME đã chạm mức cao nhất trong 4 tháng vào ngày 6/3 tại 9.739 USD/tấn do USD yếu và sau khi Tổng thống Mỹ Donald Trump nới lỏng thuế quan với Canada và Mexico.

Tâm lý lạc quan đã lan sang hoạt động giao dịch tại châu Á trên Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE), nơi giá đồng đạt mức đỉnh 5 tháng, nhưng đã giảm mức tăng để kết thúc phiên giao dịch chỉ tăng 0,3%.

Giá giảm do lo ngại mới về nền kinh tế lớn thứ hai thế giới sau khi dữ liệu cho thấy lượng nhập khẩu của Trung Quốc bất ngờ giảm trong 2 tháng đầu năm, trong khi xuất khẩu mất đà và thặng dư thương mại của Trung Quốc với Mỹ tăng. Ngoài ra, lượng đồng thô nhập khẩu của Trung Quốc đã giảm 7,2% so với cùng kỳ năm ngoái xuống 837.000 tấn trong thời gian này.

Đồng LME tăng 2,4% trong tuần qua, các nhà sản xuất đồng đang bán ra để được giá cao hơn.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt tại Đại Liên, Trung Quốc đã ghi nhận mức giảm hàng tuần, cho dù đã chấm dứt chuỗi 9 phiên giảm trong phiên 7/3, chịu sức ép từ các báo cáo về việc cắt giảm sản lượng thép tại Trung Quốc và cuộc chiến thương mại leo thang giữa Washington và Bắc Kinh.

Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 5/2025 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) đã tăng 0,19% lên 774 CNY (tương đương 106,81 USD)/tấn. Hợp đồng đã giảm 3,49% trong tuần.

Giá quặng sắt chuẩn giao tháng 4/2025 trên Sàn giao dịch Singapore tăng 0,04% lên 100,4 USD/tấn và giảm 1,99% trong tuần.

Các nhà phân tích của ANZ cho biết những nỗ lực của Bắc Kinh nhằm hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đã thúc đẩy tâm lý trên thị trường hàng hóa. Trung Quốc đã mở thêm biện pháp kích thích tài khóa, cam kết sẽ nỗ lực hơn nữa để hỗ trợ tiêu dùng và thúc đẩy nhu cầu trong nước.

Các quan chức Trung Quốc đã để ngỏ khả năng áp dụng thêm các biện pháp kích thích ngoài các biện pháp đã công bố tại cuộc họp quốc hội thường niên tuần qua nếu tăng trưởng kinh tế đi chệch hướng. Những động thái này diễn ra sau các biện pháp thương mại mới, khi Washington áp thêm 10% thuế đối với hàng hóa Trung Quốc, nâng tổng mức thuế lên 20%.

Trong khi đó, Hexun Futures cho biết, việc cắt giảm sản lượng thép tại Trung Quốc có thể làm tăng nguồn cung quặng sắt, gia tăng áp lực lên giá quặng.

Trung Quốc sẽ tái cấu trúc ngành công nghiệp thép khổng lồ của mình thông qua việc cắt giảm sản lượng, mặc dù nước này không công bố bất kỳ mục tiêu nào trong lần can thiệp gần đây nhất nhằm giải quyết tình trạng dư thừa công suất trong lĩnh vực này.

Tuy nhiên, lượng quặng sắt nhập khẩu của Trung Quốc trong 2 tháng đầu năm 2025 đã giảm 8,4% so với cùng kỳ năm 2024, bị hạn chế do tình trạng gián đoạn nguồn cung liên quan đến thời tiết tại nhà sản xuất lớn là Úc.

Giá các thành phần sản xuất thép khác trên sàn DCE tăng, với giá than cốc và than luyện cốc tăng lần lượt 1,79% và 1,1%.

Hầu hết các chuẩn thép trên sàn SHFE đều giảm: Thép cây giảm 0,67%; thép cuộn giảm 0,85% và thép dây giảm 0,14%. Giá thép không gỉ tăng 0,34%.

Nông sản: Cùng giảm giá tuần thứ 2 liên tục

Thị trường nông sản chứng kiến giá lúa mì tiếp tục suy yếu do nguồn cung cải thiện, trong khi giá ngô phục hồi nhờ thông tin miễn thuế. Đậu tương có diễn biến trái chiều giữa bối cảnh căng thẳng thương mại vẫn là yếu tố chi phối.

Giá lúa mì tương lai trên Sàn giao dịch Chicago (CBOT) giảm vào phiên cuối tuần qua (7/3) do điều kiện trồng trọt tại Pháp được cải thiện và thiếu các yếu tố hỗ trợ thị trường. Mặc dù đồng USD suy yếu thường giúp tăng tính cạnh tranh cho hàng hóa Mỹ trên thị trường quốc tế, nhưng lực cầu đối với lúa mì vẫn không được cải thiện.

Cụ thể, hợp đồng lúa mì đỏ mềm mùa Đông giao tháng 5 giảm 2,75 cent xuống 5,5125 USD/giạ và giảm 4,5 cent (0,8%) trong tuần; hợp đồng KC lúa mì đỏ cứng mùa Đông tháng 5 giảm 1 cent xuống 5,6475 USD/giạ; lúa mì Xuân Minneapolis tháng 5 giảm 1,25 cent xuống 5,9275 USD/giạ.

Tại châu Âu, giá lúa mì tương lai chạm mức thấp nhất trong 6 tháng. Báo cáo của FranceAgriMer cho thấy, xếp hạng lúa mì mùa Đông tại Pháp đã cải thiện trong tuần qua, mặc dù vẫn ở mức tương đương năm ngoái. Trong khi đó, tại Mỹ, hạn hán tiếp tục ảnh hưởng đến vành đai lúa mì Đông Plains, với 24% diện tích gieo trồng bị ảnh hưởng, tăng so với mức 22% của tuần trước. Nhà đầu tư đang theo dõi báo cáo cung - cầu tháng 3 của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA), dự kiến công bố vào ngày 11/3/2025.

Giá ngô tương lai trên CBOT ghi nhận phiên tăng thứ ba liên tiếp vào ngày 8/3, khi Mỹ thông báo miễn hầu hết thuế quan đối với Mexico và Canada, đây là 2 thị trường nhập khẩu quan trọng.

Cụ thể, hợp đồng ngô tháng 5 tăng 5,25 cent lên 4,6925 USD/giạ. Trong tuần, giá gần như đi ngang, chỉ giảm nhẹ 0,25 cent sau khi biến động trong biên độ 31 cent (từ 4,4205-4,7305 USD/giạ).

Trước đó, những lo ngại về thuế quan với Mexico, khách hàng mua ngô lớn nhất của Mỹ, đã gây áp lực lên giá. Tuy nhiên, quyết định đình chỉ thuế nhập khẩu của chính quyền Mỹ vào ngày 7/3 đã giúp thị trường phục hồi.

Bên cạnh đó, các nhà giao dịch châu Âu cho biết, một tập đoàn thức ăn chăn nuôi Hàn Quốc đã mua khoảng 131.000 tấn ngô trong phiên đấu thầu quốc tế, trong khi Tunisia không thực hiện bất kỳ giao dịch nào trong phiên đấu thầu tìm mua 25.000 tấn ngô.

Giá đậu tương tương lai trên CBOT đóng cửa trái chiều vào ngày 8/3, với hợp đồng tháng 5 ghi nhận mức giảm nhẹ sau tuần giao dịch đầy biến động.

Cụ thể, hợp đồng đậu tương tháng 5 giảm 2,25 cent xuống 10,25 USD/giạ. So với một tuần trước, giá chỉ giảm 0,75 cent, nhưng đã dao động trong khoảng 9,91-10,3605 USD/giạ suốt tuần qua. Trong khi đó, giá bột đậu nành tháng 5 giảm 50 cent xuống 304,40 USD/tấn ngắn, còn dầu đậu nành tháng 5 tăng 0,25 cent lên 43,42 cent/pound, hưởng lợi từ mức tăng 3% của dầu cọ Malaysia.

Thị trường tiếp tục chịu tác động từ chính sách thuế quan của Mỹ và Trung Quốc. Sau khi Mỹ áp thuế mới lên hàng hóa Trung Quốc, quốc gia mua đậu nành lớn nhất thế giới - Bắc Kinh đã trả đũa bằng cách tăng thuế 10-15% đối với 21 tỷ USD hàng nông sản Mỹ, bao gồm cả đậu nành. Tuy nhiên, việc miễn thuế đối với Mexico, khách hàng đậu nành lớn thứ hai của Mỹ đã phần nào giúp giảm áp lực lên giá. Nhà đầu tư đang chờ báo cáo cung - cầu tháng 3 của USDA, trong đó dự báo sản lượng và xuất khẩu có thể bị điều chỉnh do chính sách thương mại mới.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường, cà phê và cao su giảm, ca cao tăng

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô đóng cửa phiên 7/3 tăng 0,18 US cent (+1% ) lên 18,31 US cent/lb, nhưng cả tuần giảm 6%. Tương tự, giá đường trắng tăng 1,5% lên 524,9 USD/tấn trong phiên và giảm 1,4% cả tuần.

Thị trường được hỗ trợ bởi triển vọng yếu tại Ấn Độ và Thái Lan, cũng như thời tiết khô hơn bình thường tại Brazil, nước trồng mía hàng đầu.

Theo một báo cáo chính thức, Trung Quốc đang có kế hoạch mở rộng diện tích trồng cây lấy dầu và duy trì ổn định sản lượng các loại cây công nghiệp như mía đường, bông và cao su thiên nhiên. Đây có thể là một trong những yếu tố tác động đến giá đường trong thời gian tới.

Giá cà phê Arabica hợp đồng tương lai dao động quanh mức 3,9 USD/pound, giảm từ đỉnh 2 tuần 4,13 USD/pound thiết lập vào ngày 5/3.

Thị trường vẫn theo sát tình hình nguồn cung tại Brazil, quốc gia sản xuất cà phê hàng đầu thế giới. Mặc dù dự báo có mưa trong thời gian tới, nhưng tình trạng khô hạn kéo dài tại vùng Minas Gerais vẫn là mối lo lớn. Khu vực này đang ghi nhận lượng mưa thấp kỷ lục trong nhiều thập kỷ, đặc biệt tại miền Nam Minas Gerais và vùng Zona da Mata, nơi độ ẩm đất xuống mức thấp nhất trong bảy năm.

Ngoài ra, sự bất ổn về nguồn cung tiếp tục gia tăng khi Brazil gần như đã tiêu thụ hết kho dự trữ do hạn hán nghiêm trọng năm ngoái. Theo Luiz Fernando dos Reis - Giám đốc bán hàng tại Cooxupe, khoảng 90% sản lượng cà phê vụ 2024 đã được bán ra thị trường.

Trong khi đó, lượng tồn kho cà phê arabica do ICE giám sát có dấu hiệu phục hồi, đạt 809.128 bao vào ngày 27/2, sau khi giảm xuống mức thấp nhất trong 9,5 tháng vào ngày 25/2 với 758.514 bao.

Giá ca cao kỳ hạn tăng lên mức 8.200 USD/tấn, phục hồi từ đáy bốn tháng xác lập ngày 4/3. Sự suy yếu của đồng USD đã kích thích hoạt động mua bù bán khống trên thị trường hợp đồng tương lai, hỗ trợ đà tăng giá.

Tuy nhiên, áp lực giảm giá vẫn tồn tại sau khi Tổ chức Ca cao quốc tế (ICCO) ngày 28/2 công bố dự báo thặng dư nguồn cung toàn cầu 142.000 tấn cho niên vụ 2024/25, đây cũng là mức thặng dư đầu tiên trong 4 năm qua. Bên cạnh đó, việc giá ca cao tăng mạnh trong năm ngoái có thể ảnh hưởng đến nhu cầu tiêu thụ, dù hãng sản xuất sô cô la Thụy Sĩ Lindt & Sprüngli ghi nhận doanh thu hữu cơ tăng 7,8% trong năm 2024.

Giới đầu tư hiện tập trung vào tình hình thời tiết tại Tây Phi, khu vực sản xuất ca cao trọng điểm. Nông dân tại Bờ Biển Ngà báo cáo lượng mưa dưới trung bình trong tuần qua, làm dấy lên lo ngại về chất lượng và quy mô vụ giữa sắp tới. Tháng 3 được coi là giai đoạn quan trọng quyết định sự phát triển của cây trồng và chất lượng hạt ca cao trong niên vụ năm nay.

Giá cao su Nhật Bản giảm trong phiên cuối tuần qua (7/3) và ghi nhận tuần giảm trong bối cảnh đồng JPY mạnh lên và thuế quan trả đũa giữa Mỹ và Trung Quốc lấn át mối lo ngại về nguồn cung trái mùa.

Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 8 trên sàn giao dịch Osaka giảm 3,7 JPY (-1,05%) về 349,7 JPY (2,37 USD)/kg trong phiên 7/3 và giảm 2,97% trong tuần. Trong khi đó hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 5 tại Thượng Hải giảm 20 CNY (-0,11%) xuống 17.380 CNY (2.398,33 USD)/tấn.

Đồng JPY mạnh lên khiến tài sản định giá bằng đồng tiền này đắt hơn cho người mua nước ngoài. Tuy nhiên, cao su tự nhiên đang trong giai đoạn sản lượng thấp, khiến nguồn cung thị trường giảm.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

Tin bài liên quan