Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 22-29/6: Đồng giảm giá 6 tuần liên tục, lúa mì xuống mức thấp nhất 2 năm

Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 22-29/6: Đồng giảm giá 6 tuần liên tục, lúa mì xuống mức thấp nhất 2 năm

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Kết thúc tuần giao dịch từ 22-29/6, thị trường hàng hóa thế giới chứng kiến nhiều mặt hàng giảm giá kéo dài như đồng giảm giá 6 tuần liên tục, lúa mì giảm 16% trong tháng 6 xuống mức thấp nhất 2 năm, trong khi các mặt hàng dầu, quặng sắt, thép, cà phê… tiếp tục diễn biến tăng - giảm trái chiều.

Năng lượng: Giá dầu diễn biến trái chiều

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu giảm nhẹ trong phiên 28/6 do các nhà đầu tư cân nhắc nhu cầu nhiên liệu yếu của Mỹ và chốt lời vào cuối quý, trong khi số liệu lạm phát quan trọng trong tháng 5 thúc đẩy cơ hội Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ bắt đầu cắt giảm lãi suất trong năm nay.

Cụ thể, chốt phiên 28/6, dầu thô Brent giao tháng 8/2024 (hết hạn trong phiên này) tăng 0,02 USD lên 86,41 USD/thùng; hợp đồng kỳ hạn tháng 9/2024 thanh khoản nhiều hơn giảm 0,3% xuống 85 USD/thùng. Dầu WTI giảm 0,2 USD (-0,24%) xuống 81,54 USD.

Như vậy, dầu Brent tăng nhẹ 0,02% trong tuần qua, trong khi dầu WTI giảm 0,2%. Tính chung cả tháng, 2 loại dầu này tăng 6%.

Giới phân tích cho biết, một số thương nhân chốt lời khi kết thúc quý II/2024 sau khi giá tăng trước đó trong tháng. Chỉ số giá tiêu dùng cá nhân PCE của Mỹ không đổi trong tháng 5, làm dấy lên hy vọng về việc cắt giảm lãi suất vào tháng 9 tới. Tuy nhiên, phản ứng trên các thị trường tài chính là rất ít. Đối với các thương nhân dầu mỏ, thông tin này không được chú ý.

Các nhà giao dịch hiện đang định giá 64% khả năng Fed cắt giảm lãi suất lần đầu tiên vào tháng 9/2024, tăng từ mức 50% một tháng trước. Việc giảm lãi suất mang lại lợi ích cho dầu vì có thể làm tăng nhu cầu của người tiêu dùng.

Barclays dự kiến dầu thô Brent vẫn quanh mức 90 USD/thùng trong những tháng tới. Giá dầu có thể không thay đổi nhiều trong nửa cuối năm 2024, với lo ngại về nhu cầu của Trung Quốc và khả năng nguồn cung tăng từ các nhà sản xuất đối lập với rủi ro địa chính trị. Theo thăm dò, dầu thô Brent dự kiến đạt trung bình 83,93 USD/thùng trong năm 2024, dầu WTI đạt 79,72 USD.

Trên thị trường khí đốt, giá khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) giao ngay tại châu Á tuần qua vẫn ổn định do dự báo nhiệt độ cao hơn trong những tháng mùa hè ở bán cầu Bắc, khiến nhu cầu sử dụng điện để làm mát được duy trì ở mức cao.

Cụ thể, theo các nguồn tin trong ngành, giá LNG trung bình giao tháng 8/2024 tới Đông Bắc Á (LNG-AS) là 12,5 USD/mmBtu, giảm nhẹ so với mức 12,6 USD/mmBtu của tuần trước nữa.

Theo dữ liệu do Bộ Kinh tế - Thương mại - Công nghiệp (METI) công bố, dự trữ LNG tại các công ty điện lực lớn của Nhật Bản - một chỉ số quan trọng về mức độ tồn kho - gần đây đã đạt 2,08 triệu tấn tính đến ngày 23/6/2024, giảm so với mức 2,14 triệu tấn một tuần trước đó. Tuy nhiên, nhu cầu từ các nhà nhập khẩu Trung Quốc dự kiến sẽ không mạnh như nửa đầu năm, khi giá giao ngay dưới 10 USD/mmBtu.

Về nguồn cung, Chevron hồi đầu tuần cho biết, họ đã khôi phục tốc độ khai thác LNG và khí đốt trong nước tại cơ sở khí đốt Wheatstone ở Úc. Công ty tạm dừng hoạt động khai thác vào ngày 10/6/2024 để sửa chữa hệ thống khí đốt của cơ sở.

Tại châu Âu, S&P Global Commodity Insights đã đánh giá giá chuẩn hàng ngày của LNG ở Tây Bắc Âu (NWM) đối với hàng hóa được giao vào tháng 8 trên cơ sở xuất xưởng (DES) ở mức 10,858 USD/mmBtu vào ngày 27/6/2024, chênh lệch 0,5 USD/mmBtu so với giá xăng tháng 8 tại Trung tâm TTF Hà Lan.

Argus chốt giá giao hàng tháng 8 ở mức 10.750 USD/mmBtu, trong khi Spark Commodities chốt giá giao hàng tháng 7 ở mức 10.731 USD/mmBtu.

Giá khí đốt ở châu Âu giảm nhẹ vào thứ Sáu (28/6) do nguồn cung LNG tăng, nhưng vẫn được hỗ trợ bởi lo ngại về khả năng cắt nguồn cung khí đốt của Nga qua Ukraine.

Theo các nguồn tin thương mại, Ai Cập đã trao 20 lô hàng LNG trong cuộc đấu thầu mới nhất, đây là giao dịch mua nhiên liệu lớn nhất nhằm đáp ứng nhu cầu cao trong mùa hè từ tháng 7 đến tháng 9. Hàng hóa được phân bổ chủ yếu cho các công ty thương mại như TotalEnergies, Vitol và Trafigura.

Trong khi đó, giá cước vận chuyển LNG Đại Tây Dương tiếp tục đạt mức tăng kỷ lục hàng tuần, tăng 12.000 USD lên 87.000 USD/ngày vào thứ Sáu (28/6), Qasim Afghanistan, nhà phân tích tại Spark Commodities nói và cho biết thêm, giá cước ở khu vực Thái Bình Dương đang bắt đầu tăng.

Trên thị trường than, tuần qua, chỉ số than nhiệt trên thị trường châu Âu tăng trên mức 110 USD/tấn. Giá được hỗ trợ bởi giá trên thị trường điện và khí đốt tăng, lượng dự trữ giảm.

Cụ thể, giá than nhiệt lượng CV 6.000 của Nam Phi giảm xuống dưới 108 USD/tấn trong bối cảnh nhu cầu hạn chế ở Ấn Độ.

Tại Trung Quốc, giá than giao ngay 5.500 NAR tại cảng Tần Hoàng Đảo giảm 1 USD/tấn xuống 122 USD/tấn, do sản lượng và tồn kho tăng cao cũng như sản lượng thủy điện tăng hơn 40% trong nửa đầu tháng 6.

Sản lượng than của Trung Quốc tăng lên 384 triệu tấn trong tháng 5/2024 từ mức 372 triệu tấn trong tháng 4/2024. Ủy ban Cải cách và Phát triển Quốc gia (NDRC) kêu gọi các tỉnh chuẩn bị đủ dự trữ để vượt qua đợt nắng nóng kéo dài dự kiến trong 2 tháng tới. NDRC có kế hoạch phối hợp với các bộ khác để tăng nguồn cung cấp than, khí đốt và điện. Ngoài ra, mưa lớn ở miền Nam và miền Trung Trung Quốc gây thêm áp lực, khả năng tiêu thụ than tăng vọt do nhiệt độ cao.

Giá than 5.900 GAR của Indonesia giảm xuống 93 USD/tấn do nguồn cung dồi dào và nhu cầu hạn chế ở châu Á - Thái Bình Dương, nơi tồn kho ở mức cao. Trong khi mưa vẫn tiếp tục ở Indonesia, điều kiện thời tiết không thuận lợi chỉ ảnh hưởng đến hoạt động của các công ty khai thác nhỏ, do đó yếu tố này không hỗ trợ nhiều cho giá cả.

Than CV 6.000 của Úc tăng lên gần 135 USD/tấn, theo diễn biến của thị trường châu Âu. Báo giá than luyện kim của Úc ở mức 255 USD/tấn do hoạt động trên thị trường giao ngay trầm lắng, với sự cạnh tranh từ các nhà cung cấp Canada làm tăng nguồn cung. Tại Trung Quốc, dữ liệu cho thấy sản lượng thép tăng trong tháng 5 lên mức 3 triệu tấn/ngày nhờ lợi nhuận kinh doanh thép phục hồi.

Kim loại: Giá vàng ổn định, đồng giảm 6 tuần liên tục, quặng sắt và thép diễn biến trái chiều

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng ổn định và hướng tới quý tăng thứ 3 liên tiếp sau khi một báo cáo lạm phát quan trọng của Mỹ nhìn chung phù hợp với dự đoán, làm tăng hy vọng Fed có thể cắt giảm lãi suất vào tháng 9.

Cụ thể, vàng giao ngay ổn định tại 2.326,47 USD/ounce. Vàng Mỹ kỳ hạn tháng 8/2024 tăng 0,1% lên 2.339,6 USD/ounce.

Như vậy, vàng đã tăng hơn 4% trong quý II/2024. Giá vàng cũng được hỗ trợ bởi lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm.

Về những kim loại quý khác, giá bạch kim giao ngay giảm 2,2% xuống 988,75 USD/ounce; palladium vững ở mức 929 USD/ounce; bạc tăng 0,5%, lên 28,9 USD/ounce.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng tăng sau khi số liệu lạm phát của Mỹ đáng khuyến khích có thể hỗ trợ việc cắt giảm lãi suất trong tương lai, trong khi một số nhà giao dịch đã mua hợp đồng tương lai sau khi họ không thể phá vỡ dưới mức hỗ trợ quan trọng.

Cụ thể, đồng giao sau 3 tháng trên Sàn Giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,9% lên 9.597 USD/tấn. Hợp đồng này đã giảm 4% trong tháng 6 và thiết lập tuần giảm giá thứ 6 liên tiếp.

Đồng Comex Mỹ tăng 1,1% lên 4,39 USD/lb.

Chỉ số USD giảm hỗ trợ thị trường kim loại, khiến các hàng hóa định giá bằng “đồng bạc xanh” rẻ hơn cho người mua bàng các đồng tiền khác.

Cũng có hoạt động mua đồng sau khi giá giữ trên mức hỗ trợ quan trọng 9.480 USD/tấn trong ngày 27/6/2024. Việc phá vỡ dưới mức đó có thể khiến giá tiếp tục giảm xuống khoảng 9.100 USD/tấn.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt tăng trong phiên cuối tuần qua (28/6) và ghi nhận tuần tăng do kích thích bất động sản mới nhất và nhu cầu ổn định đối với thành phần sản xuất thép quan trọng tại Trung Quốc, mặc dù dự trữ cao kéo dài đã hạn chế đà tăng.

Cụ thể, hợp đồng quặng sắt kỳ hạn tháng 9/2024 trên Sàn Giao dịch hàng hóa Đại Liên, Trung Quốc tăng 0,18% lên 825 CNY (113,52 USD)/tấn và tăng 0,5% trong tuần.

Tại Singapore, quặng sắt giao tháng 8/2024 tăng 1,09% lên 106,4 USD/tấn và tăng 1,2% trong tuần này.

Sản lượng kim loại nóng hàng ngày của các nhà sản xuất thép được khảo sát ở mức khá cao khoảng 2,39 triệu tấn tính tới ngày 27/6/2024, bất chấp giảm 0,2% trong tuần, theo số liệu của Công ty Tư vấn Mysteel.

Theo đó, tại Thượng Hải,giá thép thanh giảm 0,2%; thép cuộn cán nóng thay đổi ít; dây thép cuộn giảm 0,5% và thép không gỉ tăng gần 0,3%.

Nông sản: Đồng loạt giảm giá, lúa mì giảm mạnh nhất 2 năm qua

Giá ngô trên Sàn giao dịch Chicago (CBOT) giảm do báo cáo về diện tích trồng của Bộ Nông nghiệp Mỹ được phát hành cho thấy diện tích ngô được trồng nhiều hơn dự kiến.

Ngô CBOT kỳ hạn tháng 9/2024 đóng cửa phiên 28/6 giảm 15 US cent xuống 4,07-1/2 USD/bushel, sau một thời gian ngắn giảm dưới 4 USD/bushel. Tính chung cả tuần, giá ngô giảm hơn 6% và giảm tuần thứ hai liên tiếp.

Đậu tương CBOT kỳ hạn tháng 11/2024 giảm 3/4 US cent xuống 11,04 USD/bushel.

Lúa mì CBOT mềm đỏ vụ đông giao tháng 9/2024 cũng giảm 6 US cent xuống 5,73-1/2 USD/bushel. Như vậy, giá lúa mì đã giảm khoảng 16% trong tháng 6 – mức giảm mạnh nhất trong 2 năm qua.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường tăng, đi ngược với cao su, cà phê diễn biến trái chiều

Đường thô kỳ hạn tháng 7/2024 đáo hạn phiên 28/6 tăng 0,09 US cent (+0,4%) lên 20,3 US cent/lb, sau khi lên cao nhất 2,5 tháng trước và cả tuần tăng 7%. Đường trắng kỳ hạn tháng 8/2024 tăng 2,3% lên 598,4 USD/tấn.

Sản lượng đường và mía ép cao hơn dự kiến trong nửa đầu tháng 6, theo tổ chức Unica. Giá đường được thúc đẩy gần đây bởi kết quả thu hoạch đáng thất vọng tại Brazil trong tháng 5.

Cà phê arabica kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 0,45 US cent (+0,2%) lên 2,268 USD/lb. Cà phê robusta cùng kỳ hạn giảm 0,9% xuống 4.011 USD/tấn.

Vụ thu hoạch đang tiến hành với tốc độ tốt tại Brazil với thời tiết khô. Xuất khẩu cà phê robusta từ Indonesia - nhà xuất khẩu lớn thứ hai thế giới - đã giảm 54% trong tháng 5 so với cùng kỳ năm trước.

Giá cao su Nhật Bản giảm trong phiên cuối tuần qua và cũng ghi nhận giảm trong tháng 6, do nhu cầu cao su yếu và nguồn cung phục hồi trước mùa Đông. Cụ thể, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 12/2024 trên Sàn giao dịch Osaka giảm 4,1 JPY (-1,23%) xuống 328,5 JPY (2,04 USD)/kg. Hợp đồng này đã giảm 3,67% trong tháng 6 cho dù tăng 0,31% trong tuần qua, sau khi giảm 2 tuần liên tiếp trước đó.

Tại Thượng Hải, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 9/2024 giảm 105 CNY xuống 14.955 CNY (2.058,1 USD)/tấn.

Giá cao su tấm hun khói loại xuất khẩu chuẩn của Thái Lan RSS3 và cao su khối STR20 giảm tương ứng 14,2% và 6,76% trong tháng 6.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).
Tin bài liên quan