Năng lượng: Giá dầu giảm tháng đầu tiên sau 3 tháng, khí LNG cũng ngắt chuỗi tăng 3 tuần liên tiếp
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu đã giảm vào thứ Sáu (28/2) và giảm tháng đầu tiên kể từ tháng 11/2024 do sự không chắc chắn về tăng trưởng kinh tế toàn cầu và nhu cầu nhiên liệu.
Cụ thể, dầu Brent chốt phiên ở mức 73,18 USD/thùng, giảm 86 cent, trong khi dầu thô Mỹ (WTI) đóng cửa ở mức 69,76 USD/thùng, giảm 59 cent. Cả 2 loại dầu ghi nhận mức giảm hàng tháng đầu tiên trong 3 tháng qua.
Các yếu tố bao gồm thuế quan, kế hoạch tăng nguồn cung của OPEC+ vào tháng 4/2025 và khả năng hòa bình ở Ukraine, có thể khiến dầu của Nga sẽ nhiều hơn - nhà phân tích thị trường Tony Sycamore của IG cho biết, đồng thời nói thêm rằng. giá dầu WTI được hỗ trợ tốt trong khoảng từ 65-70 USD/thùng dựa trên biểu kỹ thuật.
Hôm thứ Năm, Tổng thống Mỹ Donald Trump cho biết, mức thuế 25% đối với hàng hóa của Mexico và Canada sẽ có hiệu lực từ ngày 4/3/2025, cùng với mức thuế bổ sung 10% đối với hàng nhập khẩu của Trung Quốc.
Các nhà kinh tế tại đơn vị nghiên cứu BMI của Fitch cho biết, những người tham gia thị trường đang phải vật lộn để đánh giá tác động của tất cả các thông báo chính sách liên quan đến năng lượng.
Cũng gây áp lực lên tâm lý nhà đầu tư là việc số đơn xin trợ cấp thất nghiệp của Mỹ tăng hơn dự kiến trong tuần trước nữa, trong khi một báo cáo khác của chính phủ cung cấp thêm bằng chứng cho thấy tăng trưởng kinh tế chậm lại trong quý IV/2025.
OPEC+ đang tranh luận về việc có nên tăng sản lượng dầu vào tháng 4 tới theo kế hoạch hay không. Nếu bị trì hoãn, giá dầu có thể tăng mạnh vào mùa cao điểm dịp lễ Phục sinh.
Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (NLG) tại Mỹ giảm xuống mức thấp nhất trong một tuần vào thứ Tư (26/2) do sản lượng kỷ lục. Thời tiết ôn hòa sẽ cho phép các công ty tiện ích rút ít khí đốt hơn từ kho so với bình thường vào thời điểm này trong năm.
Cụ thể, giá LNG giao tháng 3/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York giảm 26,8 Uscent (-6,4%) xuống 3,906 USD/(mmBtu) - mức đóng cửa thấp nhất kể từ ngày 14/2/2025.
Công ty Tài chính LSEG cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã tăng lên 104,6 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) cho đến nay trong tháng 2/2025 từ mức 102,7 bcfd vào tháng trước đó, khi các giếng dầu và khí đốt đóng băng. Con số này so với mức kỷ lục hàng tháng 104,6 bcfd vào tháng 12/2023.
Với thời tiết ấm hơn sắp tới, LSEG dự báo, nhu cầu khí đốt trung bình ở 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ giảm từ 127,3 bcfd trong tuần này xuống 119,1 bcfd vào tuần tới.
Lượng khí đốt vào 8 nhà máy xuất khẩu LNG lớn của Mỹ đã tăng lên mức trung bình 15,6 bcfd cho đến nay trong tháng 2/2025, tăng từ mức 14,6 bcfd vào tháng trước đó. Con số này so với mức cao kỷ lục hàng tháng là 14,7 bcfd vào tháng 12/2023.
Mỹ đã trở thành nhà cung cấp LNG lớn nhất thế giới vào năm 2023, vượt qua Úc và Qatar, khi giá toàn cầu tăng vọt thúc đẩy nhu cầu xuất khẩu nhiều hơn, một phần là do gián đoạn nguồn cung.
Kim loại: Vàng ngắt chuỗi 8 tuần tăng giá liên tiếp, đồng giảm thấp nhất trong 2 tuần, quặng sắt và cũng giảm
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng đã giảm khi USD duy trì ở mức cao nhất trong 2 tuần sau khi dữ liệu lạm phát của Mỹ phù hợp với dự báo, làm dấy lên khả năng Cục Dự trữ Liên bang (Fed) thận trọng hơn trong việc cắt giảm lãi suất.
Cụ thể, vàng giao ngay giảm 1% xuống 2.846,19 USD/ounce, đánh dấu mức giảm 3,1% trong tuần, mức sụt giảm hàng tuần mạnh nhất kể từ tháng 11/2024. Hợp đồng vàng kỳ hạn của Mỹ cũng giảm 1,6% xuống 2.848,50 USD/ounce.
Chỉ số USD đang trên đà tăng trong tuần, khiến vàng trở nên đắt đỏ hơn đối với những người mua ở nước ngoài. Các nhà phân tích nhận định, việc chốt lời và thanh lý hợp đồng cùng với USD mạnh lên đang gây áp lực lên thị trường vàng và bạc.
Thị trường chứng khoán Mỹ mở cửa trong trạng thái ảm đạm do nhà đầu tư lo ngại về áp lực giá cả từ các chính sách của Tổng thống Trump. Những khoản lỗ trên thị trường chứng khoán đã làm tăng áp lực bán vàng, kéo dài đợt giảm từ mức cao kỷ lục hôm thứ Hai.
Chỉ số giá tiêu dùng cá nhân (PCE) của Mỹ tăng 0,3% trong tháng 1/2025, phù hợp với dự báo, sau khi tăng 0,3% trong tháng 12/2024. Các nhà giao dịch vẫn kỳ vọng Fed sẽ bắt đầu cắt giảm lãi suất vào tháng 6/2025. Tuy nhiên, lãi suất cao làm giảm sức hấp dẫn của vàng, vốn không sinh lãi.
Dù vậy, vàng vẫn đang hướng tới tháng tăng thứ hai liên tiếp nhờ lo ngại về kế hoạch áp thuế của Trump. Tổng thống Mỹ tuyên bố mức thuế 25% đối với hàng hóa từ Mexico và Canada cùng mức thuế bổ sung 10% lên hàng nhập khẩu từ Trung Quốc sẽ có hiệu lực vào ngày 4/3/2025.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay giảm 0,8% xuống 31 USD/ounce; bạch kim giảm 1,1% xuống 938,50 USD/ounce và palladium giảm 0,6% xuống 914 USD/ounce. Cả 3 kim loại quý đều ghi nhận mức giảm hàng tháng.
Ở nhóm kim loại màu, giá đồng giảm xuống mức thấp nhất hơn 2 tuần do lo ngại về cuộc chiến thương mại leo thang sau khi Mỹ áp thuế mới, điều này có thể làm chậm tăng trưởng kinh tế tại Trung Quốc - nước tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới.
Cụ thể, hợp đồng đồng giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,4% xuống 9.354,50 USD/tấn - mức thấp nhất kể từ ngày 12/2 và giảm 2% trong tuần. Hợp đồng đồng Comex của Mỹ cũng giảm 1,6% xuống 4,55 USD/pound.
Tổng thống Trump hôm thứ Năm tuyên bố áp thêm 10% thuế đối với hàng nhập khẩu Trung Quốc, bổ sung vào mức thuế 10% đã có hiệu lực từ ngày 4/2/2025, bên cạnh việc mức thuế 25% đối với hàng hóa Mexico và Canada có hiệu lực vào ngày 4/3/2025, gây thất vọng cho nhà đầu tư hy vọng vào một sự trì hoãn.
Thiếu sự rõ ràng trong chính sách thuế khiến thị trường kim loại chịu áp lực, đặc biệt là nhôm và thép, với mức thuế có thể lên tới 35%, ảnh hưởng nặng nề đến các nhà sản xuất.
Bên cạnh đó, USD mạnh lên do lo ngại về căng thẳng thương mại, khiến các hàng hóa được định giá bằng “đồng bạc xanh” trở nên đắt đỏ hơn đối với người mua sử dụng các loại tiền tệ khác.
Tồn kho đồng tại các kho do Sàn giao dịch kỳ hạn Thượng Hải (SHFE) giám sát đã tăng thêm 3,2% trong tuần qua, đạt mức cao nhất trong 6 tháng, phản ánh nhu cầu yếu.
Về các kim loại khác trên sàn LME, giá thiếc giảm 1,7% về 31.155 USD/tấn sau thông tin Myanmar có thể cho phép khai thác trở lại tại bang Wa, một khu vực giàu tài nguyên thiếc; nickel giảm 2,5% về 15.440 USD/tấn; nhôm giảm 1,1% về 2.604 USD/tấn; kẽm giảm 0,5% về 2.794 USD/tấn và chì giảm 0,8% về 1.992 USD/tấn.
Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn giảm trong phiên 28/2, qua đó ghi nhận mức lỗ hàng tháng do lo ngại về thuế quan của Mỹ và căng thẳng thương mại ngày càng gia tăng đối với xuất khẩu thép của Trung Quốc.
Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 5/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) giảm 0,74% về 799,5 CNY/tấn (109,72 USD/tấn) trong phiên này. Tính trong tháng, hợp đồng này giảm 1,17%.
Hợp đồng quặng sắt tiêu chuẩn tháng 3/2025 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 1,36% xuống 103,65 USD/tấn và giảm 1,94% trong tháng 2/2025.
Mặc dù vậy, giá thép kỳ hạn trên sàn SHFE vẫn tăng: Giá thép cây tăng gần 0,1; thép cuộn cán nóng tăng 0,18%; dây thép tăng 0,14% và thép không gỉ tăng 0,3%.
Các nguyên liệu sản xuất thép khác trên sàn DCE cũng ghi nhận mức tăng, với than cốc tăng 0,41% và than luyện cốc tăng 0,78%.
Nông sản: Đồng loạt giảm giá
Giá lúa mì kỳ hạn trên Sàn giao dịch Chicago (CBOT) giảm trong phiên 28/2 khi nhà đầu tư lo ngại về tác động của mức thuế nhập khẩu mà Mỹ có thể áp dụng đối với hàng hóa từ Mexico, Canada và Trung Quốc. Cùng với đó, đồng USD tăng mạnh khiến hàng nông sản Mỹ kém cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế.
Cụ thể, lúa mì đỏ mềm mùa Đông tháng 5/2025 giảm 7,25 cent xuống 5,6205 USD/giạ - chạm mức thấp nhất kể từ ngày 4/2; lúa mì cứng đỏ mùa Đông cùng kỳ hạn giảm 13,25 cent xuống 5,8525 USD/giạ; lúa mì xuân Minneapolis kfy hạn tương tự giảm 13 cent xuống 6,0475 USD/giạ.
Bất ổn xung quanh chính sách thuế quan càng gia tăng khi Tổng thống Mỹ Donald Trump thay đổi tuyên bố chỉ trong 2 ngày, ban đầu đề cập đến khả năng hoãn đến hết tháng 4/2025, nhưng sau đó khẳng định sẽ có hiệu lực vào ngày mai (4/3).
Giá ngô trên CBOT giảm mạnh khi Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA) công bố dự báo diện tích trồng trọt năm 2025 tại Diễn đàn Triển vọng thường niên. Theo đó, diện tích trồng đậu tương có xu hướng giảm, nhường chỗ cho ngô. Cụ thể, giá ngô tháng 5/2025 giảm 12,05 cent về 4,81 USD/giạ, mức thấp nhất kể từ 13/1/2025.
Bên cạnh đó, diễn biến không chắc chắn về chính sách thuế quan của Mỹ đối với Mexico và Trung Quốc tiếp tục gây áp lực lên thị trường. Nhà đầu tư tỏ ra thận trọng khi chính quyền Mỹ đưa ra những tín hiệu trái chiều về thời điểm và phạm vi áp thuế.
Giá đậu tương giảm trong bối cảnh thị trường bất ổn trước nguy cơ bị trả đũa từ các nước nhập khẩu lớn như Trung Quốc, khi Mỹ áp dụng mức thuế quan mới vào đầu tháng 4/2025. Cụ thể, giá đậu tương tháng 5/2025 giảm 4 cent xuống 10,3725 USD/giạ; bột đậu nành giảm 2,30 USD xuống 300,20 USD/tấn; dầu đậu nành giảm 0,24 cent xuống 45,35 cent/pound.
USDA cũng dự báo nông dân Mỹ sẽ cắt giảm diện tích trồng đậu tương để chuyển sang ngô vào năm 2025, tạo thêm áp lực lên giá mặt hàng này. Thị trường tiếp tục theo dõi diễn biến từ chính sách thương mại của Mỹ cũng như báo cáo cập nhật của USDA để đánh giá tác động dài hạn đối với nguồn cung và giá cả.
Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường, cà phê và và ca cao cùng giảm, cao su biến động trái chiều
Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường giảm sâu xuống mức thấp nhất trong hơn một tháng. Cụ thể, hợp đồng đường tương lai tiếp tục xu hướng giảm, rớt xuống dưới 19 cent/pound, chạm đáy kể từ ngày 23/1/2025. Đà giảm bị tác động bởi đồng real Brazil yếu và thời điểm hợp đồng tháng trước đáo hạn.
Báo cáo từ Czarnikow dự báo sản lượng đường niên vụ 2025-2026 của Brazil có thể đạt mức kỷ lục 43,6 triệu tấn (MMT), gây áp lực lên giá khi ngành sản xuất đường đang có lợi nhuận tốt hơn ethanol.
Tuy nhiên, Tổ chức Đường quốc tế (ISO) ngày 27/2/2025 đã điều chỉnh dự báo thâm hụt đường toàn cầu niên vụ 2024-2025 lên 4,88 MMT, gần gấp đôi mức 2,51 MMT dự báo hồi tháng 11/2024. Điều này phản ánh thị trường thắt chặt hơn so với mức thặng dư 1,31 MMT của niên vụ trước, chủ yếu do sản lượng thấp hơn dự kiến tại Ấn Độ.
Giá cà phê Arabica tương lai giao dịch quanh mức 3,8 USD/pound, gần mức đáy kể từ cuối tháng 1/2025, do đồng real Brazilsuy yếu và lượng tồn kho có dấu hiệu phục hồi.
Tồn kho cà phê Arabica do ICE giám sát đã tăng lên mức cao nhất trong một tuần, đạt 809.128 bao vào ngày 27/2, sau khi chạm đáy 9,5 tháng ở mức 758.514 bao 2 ngày trước đó. Bên cạnh đó, giới đầu tư lo ngại giá cà phê cao có thể làm giảm nhu cầu tiêu thụ, trong khi tình trạng thời tiết khô hạn tại Brazil vẫn tiềm ẩn nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất vụ mùa sắp tới.
Hợp đồng ca cao tương lai giảm gần 2% xuống 8.800 USD/tấn, chịu tác động từ lượng hàng tồn kho gia tăng và điều kiện thời tiết cải thiện tại khu vực sản xuất trọng điểm ở Tây Phi.
Sau một thời gian sụt giảm kéo dài, lượng ca cao dự trữ do sàn ICE giám sát tại các cảng của Mỹ đã phục hồi, đạt mức 1.452.105 bao tính đến ngày 27/2/2025, cao nhất trong 2,5 tháng. Trong khi đó, sản lượng ca cao giao đến các kho của Ủy ban Ca cao Ghana (COCOBOD) đạt 560.250 tấn từ đầu vụ 2024-2025 đến ngày 13/2/2025, tăng mạnh 70% so với cùng kỳ năm trước (330.000 tấn).
Ngoài ra, Nigeria, nước sản xuất ca cao lớn thứ 5 thế giới ghi nhận xuất khẩu tăng 27% so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 46.970 tấn trong tháng 1/2025. Trên toàn thị trường, giá ca cao đã mất hơn 20% kể từ đầu năm, chủ yếu do lượng mưa thuận lợi tại Bờ Biển Ngà và Ghana, 2 quốc gia dẫn đầu về sản xuất.
Trên thị trường cao su, giá cao su RSS3 giao tháng 3/2025 tại Sở giao dịch hàng hóa Tokyo (TOCOM) đi ngang, giữ mức 365,70 JPY/kg; cao su RSS3 giao tháng 5/2025 tăng 3 JPY lên 362,00 JPY/kg.
Tại sàn SHFE, giá cao su tự nhiên kỳ hạn tháng 3/2025 tăng nhẹ 30 CNY lên 17.480 CNYtấn; nhưng kỳ hạn tháng 5/2025 giảm 5 CNY về 17.565 CNY/tấn.
Tại Thái Lan, giá cao su kỳ hạn tháng 3/2025 giảm 0,7% về 81,75 Baht/kg.
Trên sàn SGX - Singapore, giá cao su TSR20 đồng loạt giảm nhẹ. Cụ thể, kỳ hạn tháng 3/2025 giảm 0,25% về 202.20 cent/kg; kỳ hạn tháng 4/2025 giảm 0,15% v 202.80 cent/kg; kỳ hạn tháng 5/2025 giảm 0,1% về 203 cent/kg.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua
![]() |
(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn). |