Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 17-24/8: Giá vàng giảm trở lại, dầu tiếp tục đi lên

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 17-24/8, thị trường hàng hóa thế giới ghi nhận giá vàng giảm trở lại sau khi xác lập mức giá cao kỷ lục trên 2.500 USD/ ounce, các mặt hàng kim loại diễn bến trái chiều, trong khi giá dầu hay các mặt hàng nguyên liệu công nghiệp đồng loạt tăng.
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 17-24/8: Giá vàng giảm trở lại, dầu tiếp tục đi lên

Năng lượng: Giá dầu tăng hơn 2%, đi ngược với khí đốt

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thô tăng vào thứ Sáu (23/8) sau khi Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) cho biết ngân hàng trung ương đang chuẩn bị cắt giảm lãi suất.

Cụt hể, giá dầu thô Brent tăng 1,8 USD/thùng (+2,33%) lên 79,02 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) tăng 1,82 USD/thùng (+2,49%) lên 74,83 USD/thùng.

Trong tuần qua, cả 2 loại dầu đều chạm mức thấp nhất từ đầu tháng 1/2024, sau khi Chính phủ Mỹ hạ mạnh ước tính về số việc làm mà các nhà tuyển dụng tạo ra trong năm nay cho đến tháng 3, làm dấy lên lo ngại về khả năng suy thoái.

USD giảm làm tăng nhu cầu đối với dầu được định giá bằng đồng tiền này từ các nhà đầu tư nắm giữ các loại tiền tệ khác. Còn Morgan Stanley cho biết, việc giảm lượng dầu tồn kho đã phần nào hỗ trợ giá dầu.

Dữ liệu gần đây từ Trung Quốc, nước nhập khẩu dầu hàng đầu, đã chỉ ra nền kinh tế đang gặp khó khăn và nhu cầu dầu chậm lại từ các nhà máy lọc dầu.

Các công ty năng lượng Mỹ trong tuần qua đã cắt giảm số lượng giàn khoan dầu và khí đốt tự nhiên đang hoạt động trong tuần thứ hai liên tiếp, Công ty Dịch vụ năng lượng Baker Hughes (BKR.O) cho hay. Số lượng giàn khoan dầu không đổi ở mức 483 giàn trong tuần, số giàn khoan khí giảm 1 giàn xuống 97 giàn.

Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ giảm khoảng 2% xuống mức thấp nhất 2 tuần vào thứ Sáu (23/8) do dự báo nhu cầu trong tuần thấp hơn dự kiến trước đó. Các nhà phân tích năng lượng cũng lưu ý rằng, tình trạng dư cung khí đốt trong kho đã kìm giá trong cả năm.

Cụ thể, giá LNG giao tháng 9/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York giảm 3,1 cent (-1,5%) xuống 2,022 USD/mmBtu - mức đóng cửa thấp nhất kể từ ngày 6/8/2024 trong ngày thứ hai liên tiếp.

Công ty Tài chính LSEG cho biết, sản lượng khí đốt tại 48 tiểu bang của Mỹ đã giảm xuống mức trung bình 102,3 bcfd cho đến nay trong tháng 8, giảm so với mức 103,4 bcfd vào tháng 7.

LSEG dự báo nhu cầu khí đốt trung bình ở 48 tiểu bang, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ tăng từ 101,2 bcfd trong tuần này lên 103,9 bcfd vào tuần tới trước khi giảm xuống 103,3 bcfd trong hai tuần sau đó.

Kim loại: Giá vàng, thép giảm; đồng, nhôm, quặng sắt biến động trái chiều

Ở nhóm kim loại quý, trong phiên giao dịch ngày 23/8, giá vàng tăng nhẹ, nhưng giảm trong tuần do kỳ vọng vào việc Fed cắt giảm lãi suất.

Cụ thể, giá vàng giao ngay tăng 0,2% lên 2.488,59 USD/ounce. Giá vàng thỏi, đạt mức cao nhất mọi thời đại, đã giảm hơn 1% trong tuần. Hợp đồng tương lai vàng của Mỹ tăng 0,29% lên 2.524 USD/ounce.

Giá vàng thỏi giảm sau khi chỉ số USD phục hồi từ mức thấp nhất trong nhiều tháng và lợi suất chuẩn của Mỹ 10 năm tăng. USD mạnh hơn và lợi suất cao hơn làm giảm sức hấp dẫn của vàng bằng cách khiến nó kém hấp dẫn hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.

Theo công cụ FedWatch của CME, các nhà giao dịch đã định giá đầy đủ khả năng Fed sẽ nới lỏng tiền tệ vào tháng 9 tới, với 76% khả năng cắt giảm 25 phần trăm điểm cơ bản. Môi trường lãi suất thấp có xu hướng thúc đẩy sức hấp dẫn của vàng thỏi không mang lại lợi nhuận.

SPDR Gold Trust GLD - quỹ giao dịch trao đổi được hỗ trợ bằng vàng lớn nhất thế giới cho biết, lượng nắm giữ của họ đã tăng 0,13% vào thứ Năm (22/8).

Về các kim loại quý khác, giá bạc giao ngay tăng 0,4% lên 29,10 USD/ounce; bạch kim tăng 0,6% lên 949,7 USD/ounce; trong khi palladium giảm 0,4% xuống 929,14 USD/ounce.

Ở nhóm kim loại màu, trong phiên 23/8, giá nhôm London tăng nhẹ và chuẩn bị cho mức tăng hàng tuần lớn nhất kể từ giữa tháng 4/2024, được thúc đẩy bởi nguồn cung nguyên liệu thô khan hiếm và kỳ vọng về việc cắt giảm lãi suất của Hoa Kỳ vào tháng 9 tới.

Cụ thể, giá nhôm giao sau ba tháng trên Sàn Giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,2% lên 2.484,50 USD/tấn, trong khi hợp đồng nhôm giao tháng 10/2024 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn Giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) giảm 0,1% xuống 19.805 CNY (tương đương 2.772,26 USD)/tấn.

Trong tuần, giá nhôm LME tăng 5% và đạt mức tăng tốt nhất kể từ tuần ngày 15/4/2024. Trên sàn SHFE, giá kim lại này cũng đạt mức tăng hàng tuần.

Do nhu cầu mạnh mẽ đối với nhôm oxit và nguồn cung hạn hẹp của quặng bauxit, dạng quặng của nhôm, đã hỗ trợ giá, đạt mức cao nhất trong hơn 6 tuần là 2.531 USD/tấn trên sàn LME vào thứ Năm (22/8).

Chiết khấu của nhôm tiền mặt LME so với hợp đồng ba tháng đã thắt chặt xuống còn 17,08 USD/tấn, mức chiết khấu nhỏ nhất kể từ ngày 1/5/2024, cho thấy nguồn cung gần đó đang thắt chặt.

Hàng tồn kho nhôm LME đã giảm 22% trong 3 tháng xuống còn 877.950 tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 8/5/2024.

Về các kim loại khác, trên sàn LME: Giá đồng tăng 0,3% lên 9.155,5 USD/tấn; nikel tăng 0,3% lên 16.645 USD/tấn; kẽm tăng 0,5% lên 2.871,5 USD /tấn; chì tăng 0,9% lên 2.071,50 USD/tấn; thiếc tăng 0,6% lên 32.520 USD/tấn.

Trên sàn SHFE, giá đồng giảm 0,7% xuống 73.480 CNY/tấn; nikel giảm 0,8% xuống 129.180 CNY/tấn; chì giảm 1,1% xuống 17.345 CNY/tấn; trong khi kẽm tăng 0,9% lên 23.865 CNY/tấn và thiếc tăng 0,3% lên 266.900 CNY/tấn.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt tương lai Đại Liên, Trung Quốc mở rộng mức tăng nhờ lĩnh vực bất động sản được hỗ trợ cùng với biên lợi nhuận tăng giữa các nhà sản xuất thép, cho dù sự thận trọng từ các yếu tố cơ bản mong manh còn lại đã hạn chế mức tăng.

Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 1/2025 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn Giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) chốt phiên tăng 0,41% lên 730 CNY (102,33 USD)/tấn, đầu phiên từng tăng lên mức cao 747 CNY/tấn. Tính cả tuần, hợp đồng này tăng hơn 4%.

Tuy nhiên, giá quặng sắt chuẩn giao tháng 9/2024 trên Sàn Giao dịch Singapore giảm 1,12% xuống 97,2 USD/tấn, trong bối cảnh USD mạnh hơn. Hợp đồng này từng chạm mức 99,9 USD/tấn vào đầu phiên.

Các ngân hàng thương mại đã phê duyệt 5.392 dự án bất động sản theo chương trình “danh sách trắng” nhằm mục đích bơm thanh khoản vào lĩnh vực bị khủng hoảng của Trung Quốc, với số tiền tài trợ lên tới gần 1.400 tỷ CNY. Điều này đã thúc đẩy tâm lý thị trường, cùng với lợi nhuận được cải thiện trong số các nhà sản xuất thép. Tuy nhiên, một số nhà phân tích vẫn thận trọng về tính bền vững của đợt phục hồi giá này.

Việc chứng kiến một đợt điều chỉnh tăng sau một loạt đợt giảm mạnh là điều bình thường, có nghĩa là xung đột xung quanh các yếu tố cơ bản của thị trường quặng sắt đã được giải quyết. Nếu không có sự cải thiện rõ ràng về nhu cầu, giá có khả năng sẽ chạm mức thấp mới trong phần còn lại của năm.

Các thành phần sản xuất thép khác trên sàn DCE diễn biến trái chiều, với giá than cốc giảm 0,78% trong khi giá than luyện cốc tăng 0,24%.

Hầu hết các chuẩn thép trên sàn SHFE đều không giữ được mức tăng đầu phiên và giảm cuối phiên. Cụ thể, Giá thép cây giảm 0,69%; thép cuộn cán nóng giảm 0,55%; thép thanh giảm 1,64% và thép không gỉ giảm 0,36%.

Nông sản: Đậu tương tăng giá, đi ngược ngô và lúa mì

Giá đậu tương trên sàn Chicago tăng, trong khi giá ngô giảm, do các thương nhân xem xét lại danh mục đầu tư khi một đợt nắng nóng sắp tới có thể ảnh hưởng đến năng suất cây trồng khu vực Trung Tây Mỹ.

Cụ thể, giá ngô CBOT giảm 2-1/2 US cent xuống 3,91 USD/bushel trong phiên 23/8 và cả tuần giảm 0,3%. Ngược lại, giá đậu tương tăng 11-1/2 US cent lên 9,73 USD/bushel và cả tuần tăng 1,6%.

Giá lúa mì đỏ mềm vụ Đông giảm 7-1/2 US cent xuống 5,28 USD/bushel. Tính chung cả tuần, giá giảm 0,3%.

Nguyên liệu công nghiệp: Đồng loạt tăng giá

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn ICE tăng 0,54 US cent (+3%) lên 18,39 US cent/lb. Tính chung cả tuần, giá đường tăng 2%. Đồng thời, đường trắng cùng kỳ hạn trên sàn LME tăng 2,7% lên 525,7 USD/tấn.

Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn London tăng 141 USD (+3,1%) lên 4.715 USD/tấn, sau khi đạt mức cao nhất ít nhất 16 năm (4.728 USD/tấn). Tính chung cả tuần, giá robustatăng 6%. Đồng thời, giá cà phê arabica kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn ICE tăng 1,8% lên 2,473 USD/lb.

Các đại lý cho biết, giá robusta được hỗ trợ bởi các yếu tố cơ bản thắt chặt, nguồn cung toàn cầu giảm và môi trường vĩ mô thuận lợi.

Giá cao su tại Nhật Bản tăng lên mức cao nhất hơn 2 tháng, được hỗ trợ bởi giá cao su tổng hợp tăng và dự kiến sản lượng tại nước xuất khẩu hàng đầu là Thái Lan sẽ thiếu hụt.

Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn Osaka (OSE) tăng 8,1 JPY (+2,38%) lên 349,1 JPY (2,4 USD)/kg, trong phiên có lúc đạt 351,6 JPY/kg - cao nhất kể từ ngày 13/6/2024.

Tương tự, giá cao su kỳ hạn tháng 1/2025 trên sàn SHFE tăng 115 CNY (+0,71%) lên 16.350 CNY/tấn. Giá cao su butadiene kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn này cũng tăng 80 CNY (+0,55%) lên 14.675 CNY (2.056,53 USD)/tấn.

Giá cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Singapore tăng 1% lên 176,7 US cent/kg.

Giá dầu cọ tại Malaysia tăng phiên thứ 3 liên tiếp lên mức cao nhất gần 3 tuần, do dự kiến sản lượng trong tháng 8/2024 giảm và nhu cầu được cải thiện đã hỗ trợ thị trường.

Cụ thể, giá dầu cọ kỳ hạn tháng 11/2024 trên sàn Bursa Malaysia tăng 43 ringgit (+1,12%) lên 3.869 ringgit (884,95 USD)/tấn. Tính chung cả tuần, giá tăng 5,1% - tuần tăng mạnh nhất kể từ giữa tháng 6/2023.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn)

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn)
Tin bài liên quan