Năng lượng: Dầu tăng giá tuần thứ 2 liên tiếp, khí LNG tiếp tục giảm 3%, than cũng giảm mạnh
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu tăng vào thứ Sáu (21/3) và ghi nhận mức tăng hàng tuần thứ hai liên tiếp do kế hoạch sản lượng mới nhất từ nhóm các nhà sản xuất OPEC+ làm tăng việc thắt chặt nguồn cung.
Cụ thể, kết thúc phiên 21/3, dầu thô Brent tăng 16 Uscent (+0,2%) lên 72,16 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) tăng 21 Uscent (+0,3%) lên 68,28 USD/thùng. Tính cả tuần, dầu Brent tăng 2,1% và WTI tăng khoảng 1,6% - mức tăng lớn nhất kể từ tuần đầu tiên của năm 2025.
Các nhà phân tích tại Ngân hàng ANZ cho biết, họ dự kiến xuất khẩu dầu thô của Iran sẽ giảm 1 triệu thùng mỗi ngày (bpd) do các lệnh trừng phạt chặt chẽ hơn. Dịch vụ theo dõi tàu Kpler ước tính xuất khẩu dầu thô của Iran đạt trên 1,8 triệu thùng/ngày vào tháng 2/2025.
Giá dầu cũng được hỗ trợ bởi kế hoạch mới của OPEC+ về việc 7 thành viên cắt giảm sản lượng hơn nữa để bù đắp cho việc sản xuất nhiều hơn mức đã thỏa thuận. Kế hoạch này sẽ đại diện cho mức cắt giảm hàng tháng từ 189.000-435.000 thùng/ngày cho đến tháng 6/2026. Kế hoạch này có khả năng hạn chế mức tăng sản lượng của OPEC+ những tháng tới, Staunovo của UBS cho hay.
Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (LNG) tại Mỹ giảm về gần mức thấp nhất 3 tuần do sản lượng cao kỷ lục, dự báo thời tiết ôn hòa hơn và nhu cầu sưởi ấm thấp hơn dự kiến trước đó cho đến đầu tháng 4/2025.
Cụ thể, giá LNG tương lai giao tháng 4/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York tăng 0,5 Uscent (+0,1%) lên 3,980 USD/mmBtu tại phiên thứ Sáu (21/3). Vào thứ Năm, hợp đồng đóng này cửa ở mức thấp nhất kể từ ngày 28/2/2025. Tính cả tuần, hợp đồng này giảm khoảng 3%.
Nhu cầu khí đốt thấp dự kiến trong những tuần tới sẽ cho phép các công ty tiện ích tiếp tục thêm nhiên liệu vào kho lưu trữ. Một số nhà phân tích cho biết, dự trữ khí đốt đang trên đà tăng vào tháng 3/2025 lần đầu tiên kể từ năm 2012 và chỉ là lần thứ hai trong lịch sử.
Tuy nhiên, cho đến nay, dự trữ khí đốt vẫn thấp hơn khoảng 8% so với mức bình thường vào thời điểm này trong năm sau khi thời tiết cực lạnh vào tháng 1 và 2/2025 buộc các công ty năng lượng phải rút một lượng lớn khí đốt ra khỏi kho, bao gồm cả lượng khí đốt kỷ lục vào tháng 1.
Công ty Tài chính LSEG cho biết, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ tăng lên 105,9 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) cho đến nay trong tháng 3, tăng so với mức kỷ lục 105,1 bcfd vào tháng 2.
Các nhà khí tượng học dự báo nhiệt độ ở 48 tiểu bang của Mỹ sẽ vẫn ấm hơn bình thường cho đến ngày 5/4. LSEG dự báo, nhu cầu khí đốt trung bình ở 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ tăng từ 106,8 bcfd tuần này lên 108,0 bcfd vào tuần tới, trước khi giảm xuống 106,1 bcfd trong 2 tuần tiếp theo.
Trên thị trường than, trong tuần qua, chỉ số than nhiệt châu Âu đã điều chỉnh xuống dưới 98 USD/tấn dưới áp lực của mức dự trữ ổn định và đủ, cũng như kết thúc mùa sưởi ấm, trong khi giá khí đốt tăng đã tác động đến thị trường than.
Giá than nhiệt lượng CV 6.000 của Nam Phi đã quay trở lại mức thấp nhất vào tháng 2/2021, giảm xuống dưới 87 USD/tấn do nhu cầu yếu ở Ấn Độ, nơi lượng dự trữ vẫn cao. Lượng than tồn kho tại Nhà ga than Richards Bay (RBCT) tăng nhẹ lên 3,79 triệu tấn.
Tại Trung Quốc, giá giao ngay cho than 5.500 NAR tại cảng Tần Hoàng Đảo giảm về 96 USD/tấn do hoạt động giao dịch yếu và lượng hàng tồn kho cao tại các cảng. Áp lực tiếp diễn do giá thấp hơn từ các nhà cung cấp, tìm cách loại bỏ lượng hàng tồn kho dư thừa cũng như mùa sưởi ấm sắp kết thúc, dẫn đến nhu cầu giảm 1 triệu tấn/ngày ở các khu vực phía bắc Trung Quốc. Nhiều người tham gia thị trường tin rằng, việc giảm lượng hàng tồn kho sẽ diễn ra chậm do mức tiêu thụ giảm và sự tăng trưởng theo mùa của sản xuất năng lượng tái tạo.
Lượng hàng tồn kho tại 9 cảng lớn của Trung Quốc đã trở lại mức tối đa trong lịch sử là 31,4 triệu tấn, trong khi lượng than dự trữ tại 6 nhà máy nhiệt điện ven biển lớn nhất nước này đạt tổng cộng 13,44 triệu tấn.
Giá than 5.900 GAR của Indonesia giảm xuống 84,8 USD/tấn, trong khi giá than 4.200 GAR tăng lên 49,8 USD/tấn. Hiệp hội các công ty khai khoáng Indonesia phản đối việc tăng 1% thuế khai thác than, điều này sẽ đẩy chi phí sản xuất lên cao. Hiệp hội lưu ý trong lời kêu gọi gửi đến chính phủ nước này rằng tình hình thị trường hiện tại không thuận lợi cho việc tăng gánh nặng tài chính.
Giá than CV cao 6.000 của Úc cũng giảm mạnh xuống dưới 94 USD/tấn như một phần của xu hướng giảm trên thị trường Úc kể từ quý IV/2024 do lượng nhập khẩu từ Nhật Bản và Hàn Quốc giảm. Việt Nam cũng cắt giảm lượng nhập khẩu than từ Úc vào tháng 2. Hơn nữa, tuần trước, các nhà xuất khẩu Mỹ đã tăng 12% lượng than nhiệt xuất khẩu sang Nhật Bản, Ấn Độ và các nước khác.
Chỉ số than luyện kim HCC của Úc đã giảm xuống dưới 170 USD/tấn, sau tình trạng cung vượt cầu vì người tiêu dùng kỳ vọng giá sẽ giảm thêm.
Kim loại: Giá vàng tăng 1%; đồng, quặng sắt và thép đều giảm
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giảm trong phiên 21/3 do USD mạnh lên và áp lực chốt lời gia tăng, nhưng vẫn duy trì đà tăng hàng tuần nhờ những bất ổn địa chính trị và kỳ vọng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) sẽ cắt giảm lãi suất.
Cụ thể, giá vàng giao ngay giảm 1% xuống 3.015,43 USD/ounce; hợp đồng vàng tương lai tại Mỹ giảm 0,7% xuống 3.021,40 USD/ounce. Tuy nhiên, vàng vẫn tăng 1% trong tuần, sau khi chạm mức cao kỷ lục 3.057,21 USD/ounce vào thứ Năm (20/3).
Thị trường vàng chịu áp lực từ việc USD tăng 0,3% lên mức cao nhất 2 tuần, khiến vàng trở nên đắt hơn đối với người mua nước ngoài. Dù vậy, nhu cầu trú ẩn an toàn vẫn hỗ trợ vàng do lo ngại về thuế quan của Mỹ cũng như rủi ro địa chính trị, đặc biệt là tình hình leo thang xung đột giữa Israel và Hamas.
Về các kim loại quý khác, giá bạc giảm 1,7% xuống 32,97 USD/ounce; bạch kim giảm 1,1% xuống 973,45 USD/ounce, trong khi palladium nhích nhẹ 0,1% lên 953,14 USD/ounce. Cả ba kim loại đều giảm giá trong tuần.
Ở nhóm kim loại màu, giá đồng giảm do áp lực từ USD mạnh, trong khi lo ngại về khả năng Mỹ áp thuế nhập khẩu mới khiến mức chênh lệch giá hợp đồng tương lai Comex so với London tăng lên mức cao nhất từ trước đến nay.
Cụ thẻ, giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn Giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,8% xuống 9.854 USD/tấn. Trong khi đó, giá đồng trên sàn Comex của Mỹ giảm nhẹ 0,1% xuống 5,1085 USD/pound, sau khi đạt mức cao nhất trong 10 tháng vào thứ Năm (20/3).
Mỹ nhập khẩu khoảng 40% nhu cầu đồng, trong đó có từ Canada - quốc gia bị ảnh hưởng bởi chính sách thuế của ông Trump. Nếu Mỹ áp thuế 25% lên đồng, mức chênh lệch giá đồng tại Comex so với LME có thể tăng lên 2.000 USD/tấn.
Nguồn cung trên thị trường LME cũng thắt chặt, với lượng tồn kho khả dụng giảm xuống mức thấp nhất kể từ tháng 6/2024. Ngoài ra, trên sàn LME, giá nhôm giảm 1,5% xuống 2.620,50 USD/tấn; chì giảm 2% xuống 2.015,50 USD/tấn; thiếc giảm 2,5%; trong khi kẽm tăng nhẹ 0,2%.
Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt tương lai giảm trong phiên 21/3 cũng như cả tuần do lo ngại ngày càng tăng về triển vọng nhu cầu tại quốc gia tiêu thụ hàng đầu Trung Quốc trong bối cảnh chiến tranh thương mại toàn cầu leo thang.
Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 5 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc giảm 0,33% xuống 757,5 CNY (104,52 USD)/tấn trong phiên 21/3 và giảm 3,8% trong tuần. Hợp đồng này đã chạm mức thấp nhất kể từ ngày 10/1/2025 ở mức 753,5 CNY/tấn vào đầu phiên giao dịch.
Giá quặng sắt chuẩn giao tháng 4 trên Sàn giao dịch Singapore đã giảm 0,85% xuống 99,65 USD/ tấn, sau khi chạm mức thấp nhất kể từ ngày 11/3 ở mức 99,05 USD/tấn trước đó. Trong tuần, giá đã giảm 4,2%.
Qian Gang - Chủ tịch CITIC Pacific Special Steel, cho biết Trung Quốc đang cân nhắc thành lập các quỹ liên quan để xây dựng hệ thống bồi thường nhằm loại bỏ công suất thép lạc hậu. Một số nhà phân tích cho rằng, đây là một tín hiệu khác cho thấy Bắc Kinh quyết tâm và nghiêm túc trong việc giải quyết tình trạng dư thừa công suất đang hoành hành trong ngành thép năm nay, gây sức ép lên nhu cầu nguyên liệu sản xuất thép.
Sản lượng kim loại nóng trung bình hàng ngày, thường được sử dụng để đánh giá nhu cầu quặng sắt, đã tăng 2,5% so với tuần trước nữa lên mức cao nhất kể từ ngày 2/8/2024, ở mức 2,36 triệu tấn tính đến ngày 20/3/2025, theo khảo sát của Công ty Tư vấn Mysteel.
Giá các thành phần sản xuất thép khác trên sàn DCE giảm, với giá than cốc và than luyện cốc lần lượt giảm 1,8% và 1,76%.
Các chuẩn mực thép trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) biến động trong phạm vi hẹp. Giá thép cây và thép cuộn cán nóng ít thay đổi; trong khi thép dây giảm 0,38% và thép không gỉ giảm 0,6%.
Nông sản: Giá lúa mì ổn định, đậu tương và ngô tụt lùi
Thị trường nông sản tuần qua khép lại với diễn biến trái chiều, khi lúa mì nhích nhẹ, trong khi ngô và đậu tương chịu áp lực giảm do USD mạnh lên và tâm lý thận trọng của giới giao dịch.
Cụ thể, trên Sàn giao dịch Chicago (CBOT), giá lúa mì kỳ hạn giữ ổn định trước khi tăng vào cuối phiên 22/3, giữa bối cảnh thị trường đánh giá tác động của đồng USD tăng giá và điều kiện thời tiết có lợi tại các vùng trồng trọng điểm ở Mỹ.
Hợp đồng lúa mì đỏ mềm mùa Đông giao tháng 5 tăng nhẹ 1 cent lên 5,5825 USD/giạ. Lúa mì đỏ cứng mùa Đông tăng 2,25 cent lên 5,8875 USD/giạ, trong khi lúa mì xuân Minneapolis chỉ nhích 0,25 cent lên 6,05 USD/giạ. Tính chung cả tuần, hợp đồng lúa mì hoạt động mạnh nhất tăng 0,22%.
Thị trường lúa mì chịu tác động kép từ sự mạnh lên của đồng USD và những diễn biến liên quan đến chính sách thương mại của Mỹ, đặc biệt là thời hạn áp thuế đáp trả vào ngày 2/4 sắp tới. USD tăng giá làm giảm sức cạnh tranh của nông sản Mỹ trên thị trường toàn cầu, tạo sức ép lên giá lúa mì xuất khẩu.
Bên cạnh đó, các nhà giao dịch cũng đang điều chỉnh vị thế trước cuối tuần nhằm đề phòng rủi ro từ những biến động kinh tế. Tuy nhiên, thời tiết có tuyết tại khu vực Đồng bằng nước Mỹ trong tuần qua lại là yếu tố hỗ trợ tích cực, giúp cung cấp độ ẩm cần thiết cho vụ lúa mì đông.
Giá ngô kỳ hạn chịu áp lực giảm khi giới đầu tư tái cơ cấu danh mục trước kỳ báo cáo quan trọng của Bộ Nông nghiệp Mỹ (USDA). Hợp đồng ngô giao tháng 5 giảm 4,75 cent về 4,6425 USD/giạ. Dù vậy, tính cả tuần, hợp đồng ngô hoạt động mạnh nhất vẫn tăng 1,25%.
Sự mạnh lên của USD khiến hàng nông sản Mỹ kém hấp dẫn hơn trên thị trường xuất khẩu, góp phần vào xu hướng điều chỉnh giá. Ngoài ra, giới đầu tư cũng thận trọng trước báo cáo dự trữ ngũ cốc và kế hoạch trồng trọt năm 2025 của USDA, dự kiến công bố vào ngày 31/3 tới đây. Theo các chuyên gia, nhiều khả năng diện tích gieo trồng ngô tại Mỹ sẽ tăng trong năm nay, làm dấy lên lo ngại về nguồn cung dư thừa và tạo thêm áp lực lên giá.
Giá đậu tương tiếp tục suy yếu khi nhà đầu tư điều chỉnh vị thế trước các yếu tố bất ổn kinh tế và chính sách tiền tệ. Hợp đồng đậu tương giao tháng 5 giảm 3,25 cent xuống 10,0975 USD/giạ. Tính chung cả tuần, hợp đồng đậu tương hoạt động mạnh nhất giảm 0,62%.
Trái ngược với xu hướng giảm của đậu tương, giá bột đậu tương giao tháng 5 tăng 3,2 USD lên 300,3 USD/tấn ngắn, trong khi giá dầu đậu tương cùng kỳ hạn giảm 0,7 cent xuống 42,01 cent/pound.
Cũng giống như lúa mì và ngô, đậu tương chịu sức ép từ sự tăng giá của USD, khiến chi phí xuất khẩu cao hơn và giảm khả năng cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. Ngoài ra, giới giao dịch cũng thận trọng trước các rủi ro kinh tế và những tác động tiềm tàng từ chính sách thuế mới của Mỹ.
Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường tăng, trong khi ca cao, cà phê và cao su diễn biến trái chiều
Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, thị trường đường thô ghi nhận mức tăng đáng kể. Hợp đồng đường thô kỳ hạn trên sàn ICE tăng 1,6% lên 20 cent/pound trong phiên 22/3, sau khi chạm mức cao nhất trong 2,5 tuần là 20,09 cent/pound vào phiên trước đó. Tương tự, giá đường trắng tăng 1,2% lên 564 USD/tấn.
Nguyên nhân chính thúc đẩy giá đường là lo ngại thời tiết bất lợi tại Brazil, nước sản xuất hàng đầu thế giới. Theo LSEG Agriculture Weather Dashboard, độ ẩm đất tại các khu vực trồng mía chính của Brazil đã giảm xuống mức thấp nhất 7 năm do ảnh hưởng của đợt khô hạn kéo dài từ tháng 2 đến đầu tháng 3.
Bên cạnh yếu tố thời tiết, tỷ giá đồng real Brazil tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 10/2024 cũng làm giảm động lực bán kỳ hạn của các nhà máy đường nước này, góp phần hỗ trợ giá đường duy trì đà tăng.
Giá cà phê Robusta trên thị trường thế giới tiếp tục điều chỉnh giảm ở tất cả các kỳ hạn. Cụ thể, hợp đồng giao tháng 5 giảm 30 USD xuống 5.497 USD/tấn, kỳ hạn giao tháng 11 giảm 24 USD về 5.331 USD/tấn. Hai kỳ hạn giao tháng 7 và 9 cũng giảm lần lượt 27 USD và 28 USD mỗi tấn.
Ngược lại, giá cà phê Arabica trên sàn New York có xu hướng nhích nhẹ. Hợp đồng giao tháng 5 tăng 20 USD lên 8.640 USD/tấn. Tuy nhiên, mức tăng này vẫn khá khiêm tốn trong bối cảnh thị trường chưa có nhiều yếu tố hỗ trợ mạnh.
Giá ca cao trên thị trường quốc tế không có nhiều biến động lớn. Hợp đồng ca cao London duy trì ở mức 6.234 bảng/tấn, trong khi hợp đồng ca cao New York giảm nhẹ 0,6% về 8.071 USD/tấn.
Dù giá chưa có nhiều thay đổi, thị trường ca cao vẫn đối mặt với nhiều yếu tố bất ổn. Tại Bờ Biển Ngà, nước sản xuất ca cao lớn nhất thế giới, thời tiết khô hạn có thể khiến sản lượng vụ giữa giảm tới 40%. Bên cạnh đó, dữ liệu về nhu cầu tiêu thụ ca cao vẫn chưa rõ ràng, khiến thị trường trong trạng thái chờ đợi.
Trong một diễn biến khác, ngành ca cao Brazil vừa nhận được sự hỗ trợ từ quỹ tài chính trị giá 176 triệu USD do 4 tổ chức trong nước khởi xướng, nhằm giúp các nông hộ nhỏ mở rộng sản xuất từ nay đến năm 2030, trong bối cảnh ngành ca cao nước này đối mặt với năng suất thấp và nhiều thách thức khác.
Dự báo trong thời gian tới, giá ca cao có thể biến động tùy thuộc vào diễn biến thời tiết tại Tây Phi cũng như nhu cầu tiêu thụ từ các thị trường lớn như châu Âu và Mỹ.
Đóng cửa phiên giao dịch cuối tuần qua 22/3, trên sàn Tocom - Tokyo, giá cao su RSS3 tại kỳ giao hàng tháng 4/2025 giảm 1,1 JPY xuống 344,9 JPY/kg; kỳ giao hàng tháng 7/2025 tăng 0,06% lên 349,2 JPY/kg.
Trên sàn SHFE - Thượng Hải, giá cao su tự nhiên tại kỳ giao hàng tháng 4/2025 tăng 65 CNY lên 16.990 CNY/tấn; tại kỳ giao hàng tháng 5/2025 tăng 35 CNY lên 17.000 CNY/tấn; tại kỳ giao hàng tháng 6/2025 tăng 40 CNY lên ức 17.075 CNY/tấn.
Trên sàn SGX - Singapore, giá cao su TSR20 tại kỳ hạn tháng 4/2025 giảm 0,6 cent xuống 197 cent/kg; tại kỳ hạn tháng 5/2025 giảm 1,2 cent xuống 196,8 cent/kg; tại kỳ hạn tháng 6/2025 giảm 1,1 cent xuống 197,3 cent/kg.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua
![]() |
(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn). |