Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 136-20/7: Giá kim loại xuống mức thấp nhiều tháng

Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 136-20/7: Giá kim loại xuống mức thấp nhiều tháng

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Kết thúc tuần giao dịch từ 13-20/7, thị trường hàng hóa thế giới trong xu hướng giảm, riêng mặt hàng kim loại lùi về mức thấp nhiều tháng.

Năng lượng: Giá dầu thấp nhất 1 tháng, khí tự nhiên cũng giảm mạnh

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thế giới giảm hơn 2 USD vào thứ Sáu (19/7), mức thấp nhất kể từ giữa tháng 6, trong khi USD mạnh lên.

Cụ thể, ngày 19/7, giá dầu thô Brent giảm 2,48 USD (-2,9%) về 82,63 USD/thùng; dầu thô Mỹ (WTI) giảm 2,69 USD (-3,3%) về 80,13 USD/thùng.

Đồng USD mạnh hơn làm giảm nhu cầu về dầu tính bằng “đồng bạc xanh” từ những người mua nắm giữ các loại tiền tệ khác.

Dữ liệu chính thức cho thấy, nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng chậm hơn dự kiến 4,7% trong quý II/2024, làm dấy lên lo ngại về nhu cầu dầu của nước này.

Công ty Dịch vụ năng lượng Baker Hughes BKR.O cho biết, số giàn khoan dầu đã giảm 1 giàn xuống 477 giàn trong tuần qua, mức thấp nhất từ tháng 12/2021.

Sự cố gián đoạn hệ thống máy tính toàn cầu đã làm gián đoạn hoạt động của nhiều ngành, với việc các hãng hàng không tạm dừng các chuyến bay, một số đài truyền hình ngừng phát sóng và các lĩnh vực từ ngân hàng đến chăm sóc sức khỏe gặp phải các sự cố hệ thống.

Trên thị trường khí đốt, giá khí tự nhiên kỳ hạn của Mỹ ít thay đổi vào thứ Sáu (19/6) do sản lượng tăng trong tháng qua và tình trạng dư cung khí đốt trong kho dự trữ, bù đắp cho dự báo thời tiết nóng quay trở lại vào cuối tháng 7 và đầu tháng 8 sẽ thúc đẩy nhu cầu.

Cụ thể, giá khí đốt giao tháng 8/2024 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York tăng 0,3 cent (+0,1%) lên 2,128 USD/mmBtu. Tuy nhiên, trong tuần qua giá giảm khoảng 9% sau khi tăng chưa đến 1% vào tuần trước nữa.

Công ty Tài chính LSEG cho biết, sản lượng khí đốt tại 48 tiểu bang của Mỹ tăng lên trung bình 102,1 bcfd từ đầu tháng 7 đến nay, tăng từ mức trung bình 100,2 bcfd trong tháng 6 và mức thấp nhất 17 tháng là 99,4 bcfd trong tháng 5.

Dòng khí tới 7 nhà máy xuất khẩu LNG lớn của Mỹ đã giảm xuống 11,6 bcfd từ đầu tháng 7 đến nay, sau khi nhà máy Freeport LNG ở Texas đóng cửa trước khi cơn bão Beryl đổ bộ vào Bờ biển Texas vào ngày 8/7, giảm từ 12,8 bcfd trong tháng 6 và mức cao kỷ lục hàng tháng là 14,7 bcfd trong tháng 7.

Kim loại: Đồng loạt giảm mạnh

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng giảm hơn 2% trong tuần qua do USD tăng và hoạt động bán ra chốt lời sau khi đạt mức cao kỷ lục vào đầu tuần, được thúc đẩy bởi kỳ vọng ngày càng tăng về việc Mỹ cắt giảm lãi suất vào tháng 9/2024.

Cụ thể, vàng giao ngay trên sàn LBMA giảm 1,9% về 2.399,27 USD/ounce. Giá vàng đạt mức cao kỷ lục 2.483,6 USD/ounce trong phiên 17/7/2024. Vàng kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn New York giảm 2,3% về 2.399,1 USD/ounce.

Đồng USD tăng khoảng 0,2% so với các đồng tiền chủ chốt, cùng với đó là lợi suất trái phiếu kho bạc Mỹ cũng tăng, gây áp lực lên giá vàng.

Đồng thời, giá bạc giao ngay giảm 3,2% xuống 29,11 USD/ounce; bạch kim giảm 0,3% xuống 964,75 USD/ounce và palađi giảm 2,7% xuống 905,09 USD/ounce. Cả 3 kim loại này đều có tuần giảm.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng chạm mức thấp nhất trong hơn 3 tháng, trong đó đồng ở London có tuần giảm mạnh nhất kể từ tháng 8/2022, do không có biện pháp kích thích từ nước tiêu dùng hàng đầu Trung Quốc.

Cụ thể, giá đồng giao sau 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,6% xuống 9.327,50 USD/tấn - mức thấp nhất kể từ ngày 11/4/2024.

Hợp đồng đồng giao tháng 8/2024 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) đóng cửa giảm 2,1% xuống 76.580 CNY (tương đương 10.537,32 USD)/tấn - mức thấp nhất kể từ ngày 11/4/2024.

Trong tuần, giá đồng LME giảm 5,5% - mức giảm hàng tuần lớn nhất kể từ tháng 8/2022. Giá đồng trên sàn SHFE giảm 3% so với tuần trước.

Cuộc họp chính trị quan trọng của Trung Quốc trong tuần qua không cung cấp bất kỳ thông tin chi tiết nào về các biện pháp kích thích tiếp theo, cho dù nền kinh tế đang phải vật lộn để duy trì đà tăng trưởng mạnh mẽ, làm giảm triển vọng nhu cầu tại quốc gia tiêu thụ kim loại lớn nhất thế giới.

Trong khi đó, giá các kim loại khác cũng chạm mức thấp trong nhiều tháng.

Trên sàn LME, giá nhôm chạm mức 2.378,5 USD/tấn - thấp nhất kể từ ngày 3/4/2024; nikel đạt 16.395 USD/tấn - mức thấp gần 5 tháng. Cả nikel và nhôm đều bị đè nặng bởi sản lượng tăng ở các nước sản xuất chính. Giá các kim loại khác như chì giảm 0,4% xuống 2.148 USD/tấn; thiếc giảm 4,1% xuống 30.300 USD/tấn và kẽm giảm 0,9% xuống 2.785 USD/tấn.

Trên sàn SHFE, giá nhôm giảm 0,9% xuống 19.535 CNY/tấn - mức thấp nhất kể từ ngày 28/3/2024; nikel giảm 0,5% xuống 130.170 CNY/tấn; kẽm giảm 1% xuống 23.450 CNY/tấn; chì giảm 0,4% xuống 19.830 CNY/tấn và thiếc giảm 3,8% xuống 258.690 CNY/tấn.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn giảm vào thứ Sáu (19/7), ghi nhận tuần giảm giá do thiếu sự kích thích cụ thể từ nước tiêu dùng hàng đầu Trung Quốc và nhu cầu thép theo mùa yếu gây áp lực lên thị trường.

Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 9/2024 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE), Trung Quốc kết thúc giao dịch trong ngày thấp hơn 0,19% về mức 804,5 CNY (tương đương 110,72 USD)/tấn, giảm 2,54% so với giá đóng cửa tuần trước. Hợp đồng này chạm mức thấp nhất trong ngày là 792,5 CNY/tấn, mức thấp nhất kể từ ngày 26/6/2024.

Giá quặng sắt chuẩn giao tháng 8/2024 trên Sàn giao dịch Singapore thấp hơn 0,99% về mức 104,45 USD/tấn và giảm 2,33% trong - mức giảm hàng tuần mạnh nhất kể từ ngày 7/6/2024.

Hầu hết giá thép chuẩn trên sàn SHFE đều tăng nhẹ vào thứ Sáu. Giá thép cuộn và thép không gỉ mỗi loại tăng khoảng 0,1%; trong khi thép thanh giảm 0,25%.

Giá các nguyên liệu sản xuất thép khác trên sàn DCE đều bị trộn lẫn. Giá than cốc tăng 0,29%, trong khi giá than cốc DCJcv1 giảm 1,13%.

Nông sản: Lúa mì tăng giá, đi ngược ngô và đậu tương

Giá lúa mì trên sàn Chicago tăng do hoạt động mua bù thiếu và lo ngại thời tiết bất lợi tại các khu vực trồng trọng điểm của Mỹ và toàn cầu.

Cụ thể, trên sàn Chicago (CBOT), giá lúa mì kỳ hạn tháng 9/2024 tăng 7-1/2 US cent lên 5,42-3/4 USD/bushel. Giá ngô kỳ hạn tháng 12/2024 giảm 1/4 US cent xuống 4,04-3/4 USD/bushel và đậu tương kỳ hạn tháng 11/2024 giảm 7 US cent xuống 10,36 USD/bushel.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường và cao su giảm, dầu cọ đi lên, cà phê diễn biến trái chiều

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô giảm xuống mức thấp nhất kể từ đầu tháng 6/2024, trong bối cảnh triển vọng cây trồng tại châu Á được cải thiện.

Cụ thể, giá đường thô kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn ICE giảm 0,28 US cent (-1,5%) xuống 18,66 US cent/lb, sau khi giảm xuống mức thấp nhất (18,55 US cent/lb) kể từ ngày 3/6/2024 trong đầu phiên. Tính chung cả tuần, giá đường giảm 2,8% sau khi giảm 4,6% trong tuần trước đó. Đồng thời, giá đường trắng kỳ hạn tháng 10/2024 trên sàn London giảm 0,8% xuống 541,2 USD/tấn.

Giá cà phê arabia kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn ICE giảm 2,7 US cent (-1,1%) xuống 2,382 USD/lb, giảm từ mức cao kỷ lục 2,5 năm (2,553 USD/lb) trong tuần trước đó. Tính chung cả tuần, giá cà phê giảm 4,2%.

Trong khi đó, giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn London tăng 1,1% lên 4.530 USD/tấn, tuần trước nữa đạt mức cao kỷ lục 4.681 USD/tấn.

Giá cao su tại Nhật Bản tăng trong bối cảnh đồng JPY suy yếu, song thị trường có tuần giảm mạnh nhất 1 tháng do thiếu thông tin kích thích mới từ nước tiêu thụ hàng đầu Trung Quốc. Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tháng 12/2024 trên sàn Osaka (OSE) tăng 1,8 JPY (+0,57%) lên 319,0 JPY (2,02 USD)/kg, nhưng cả tuần giảm 1,82% - tuần giảm mạnh nhất kể từ ngày 17/6/2024.

Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 9/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 80 CNY (+0,55%) lên 14.595 CNY (2.008,67 USD)/tấn, nhưng cả tuần giảm 0,85% - tuần giảm thứ 6 liên tiếp. Giá cao su kỳ hạn tháng 8/2024 trên sàn Singapore giảm 0,2% xuống 162,7 US cent/kg.

Giá dầu cọ kỳ hạn tại Malaysia hầu như không đổi, do giá dầu đậu tương trên sàn Đại Liên và Chicago mạnh hơn, bù đắp cho giá dầu thô suy yếu. Cụ thể, hợp đồng dầu cọ FCPOc3 giao tháng 10/2024 trên sàn Bursa Malaysia đầu phiên giao dịch hôm nay nhích không đáng kể 0,05% lên mức 3.939 ringgit (842,57 USD)/tấn.

Trên sàn thương mại Chicago, giá dầu đậu tương Boc1 của Mỹ tăng 0,41%. Trên sàn giao dịch Đại Liên, giá dầu đậu tương DBYcv1 tăng 1,23%, trong khi giá dầu cọ DCPcv1 lại giảm 0,15%. Giá dầu cọ chịu ảnh hưởng bởi giá dầu có liên quan khi cạnh tranh thị phần trên thị trường dầu thực vật toàn cầu.

Đồng ringgit của Malaysia giảm 0,21% so với USD. Đồng ringgit suy yếu khiến dầu cọ trở nên rẻ hơn đối với các khách mua nước ngoài.

Malaysia duy trì thuế xuất khẩu tháng 8/2024 đối với dầu cọ thô ở mức 8% và tăng giá tham chiếu, theo MPOB. Giá dầu cọ có thể hướng tới mức 3.851-3.873 ringgit/tấn, theo nhà phân tích kỹ thuật Wang Tao của Reuters.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).
Tin bài liên quan