Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 13-20/1: Cao su tăng giá tuần thứ 6 liên tiếp, đồng và nông sản kéo dài đà giảm

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Trong tuần giao dịch từ 13-20/1, thị trường hàng hóa ghi nhận giá cao su giữ vững đà tăng ở tuần thứ 6 liên tục, ngược lại giá đồng giảm 4 tuần liên tiếp, nông sản cũng giảm trong nhiều tuần
Thị trường hàng hóa thế giới tuần từ 13-20/1: Cao su tăng giá tuần thứ 6 liên tiếp, đồng và nông sản kéo dài đà giảm

Năng lượng: Giá dầu nhích tăng, khí đốt xuống mức thấp nhất 3 tuần, than tiếp tục chịu áp lực

Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu giảm nhẹ trong phiên 19/1 song có tuần tăng do căng thẳng Trung Đông và hoạt động sản xuất dầu bị gián đoạn, làm lu mờ lo ngại về nền kinh tế Trung Quốc và toàn cầu.

Cụ thể, đóng cửa phiên giao dịch ngày 19/1, dầu thô Brent giảm 54 US cent xuống 78,56 USD/thùng và dầu thô Tây Texas (WTI) giảm 67 US cent xuống 73,41 USD/thùng. Tuy nhiên, tính chung cả tuần, giá dầu Brent tăng 0,5% và dầu WTI tăng hơn 1%.

Tăng trưởng kinh tế Trung Quốc trong quý IV/2023 thấp hơn so với dự kiến làm dấy lên mối hoài nghi về dự báo nhu cầu sẽ thúc đẩy tăng trưởng dầu toàn cầu năm 2024. Trong khi đó, rủi ro địa chính trị tại Trung Đông cũng hỗ trợ giá dầu trong tuần.

Trên thị trường khí đốt, giá khí tự nhiên tại Mỹ xuống mức thấp nhất 3 tuần do dự báo nhu cầu giảm và sản lượng tăng khi thời tiết đến cuối tháng 1 và đầu tháng 2/2024 ấm hơn bình thường.

Cụ thể, giá khí tự nhiên kỳ hạn tháng 2/2024 trên sàn New York giảm 17,8 US cent (-6,6%) xuống 2,519 USD/mmBTU - thấp nhất kể từ ngày 29/12/2023. Đây là phiên giảm thứ 4 liên tiếp - lần đầu tiên kể từ tháng 11/2023.

Tính chung cả tuần, giá khí tự nhiên giảm gần 24% sau khi tăng 15% trong 2 tuần trước đó.

Trên thị trường than, tuần qua, chỉ số than nhiệt trên thị trường châu Âu liên tục giảm dưới 105 USD/tấn. Giá than vẫn chịu áp lực trong bối cảnh nhiệt độ dự kiến ấm hơn, tồn kho tăng, giá khí đốt giảm xuống mức thấp nhất trong 2 năm.

Cụ thể, than nhiệt lượng 6.000 CV của Nam Phi dao động trong khoảng 96-97 USD/tấn - vẫn ở mức dưới 100 USD/tấn do nhu cầu hạn chế ở châu Âu.

Hàng tồn kho tại Cảng Nam Phi Ricchards Bay Coal Terminal (RBCT) lên tới 3,6 triệu tấn, trong khi gần đây khối lượng bốc hàng lên bến đã tăng lên mức kỷ lục 5,3 triệu tấn trong tháng 12/2023 ( tăng 1,9 triệu tấn so với tháng 11 đầu năm 2023) nhờ việc đưa vào vận hành 7 đầu máy xe lửa mới.

Tại Trung Quốc, giá than giao ngay 5.500 NAR tại cảng Tần Hoàng Đảo giảm 1 USD/tấn xuống 129 USD/tấn. Mặc dù tồn kho tại các cảng giảm và dự báo thời tiết lạnh, giá vẫn chịu áp lực do nhập khẩu cao và nguồn cung trong nước mạnh, cũng như tiêu thụ than tại các nhà máy nhiệt điện giảm và nhu cầu từ các doanh nghiệp công nghiệp giảm. Ngoài ra, nhu cầu từ các công ty phát điện trên thị trường giao ngay giảm do nguyên liệu nhập khẩu hấp dẫn hơn.

Giá than Nga 5.500 NAR giao cuối tháng 2/2024 được chào giá 123 USD/tấn.

Giá than 5.900 GAR của Indonesia tăng thêm 1 USD/tấn lên 93 USD/tấn.

Giá than CV 6.000 tại Úc ở mức 335 USD/tấn.

Kim loại: Giá vàng giảm mạnh nhất 6 tuần, đồng giảm 4 tuần liên tục, quặng sắt và thép duy trì đà tăng

Ở nhóm kim loại quý, giá vàng tăng trong phiên 19/1, song vẫn có tuần giảm mạnh nhất trong 6 tuần do bình luận từ các nhà hoạch định chính sách của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) làm giảm kỳ vọng về việc cắt giảm lãi suất sớm.

Cụ thể, kết thúc phiên 19/1, vàng giao ngay trên sàn LBMA tăng 0,2% lên 2.027,49 USD/ounce, nhưng cả tuần giảm 1%. Vàng kỳ hạn tháng 2/2024 trên sàn New York tăng 0,4% lên 2.029,3 USD/ounce.

Chỉ số USD giảm 0,2% song có tuần tăng 1%. USD tăng mạnh khiến vàng được định giá bằng “đồng bạc xanh” trở nên đắt hơn khi mua bằng tiền tệ khác.

Ở nhóm kim loại màu, giá đồng tăng vào thứ Sáu (19/1) do USD giảm giá, nhưng hướng tới tuần giảm giá do dữ liệu kinh tế Trung Quốc yếu kém và USD mạnh hơn vào đầu tuần.

Cụ thể, giá đồng giao 3 tháng trên Sàn giao dịch kim loại London (LME) tăng 0,1% lên 8.314 USD/tấn. Trong khi đó, hợp đồng đồng giao tháng 3/2024 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) tăng 0,1% lên mức 67.770 CNY (tương đương 9.419,30 USD)/tấn. Tuy nhiên, cả 2 hợp đồng đều có tuần giảm thứ tư liên tiếp.

USD giảm giá khiến kim loại được định giá bằng “đồng bạc xanh” trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác, nhưng đang hướng tới tuần tăng thứ hai liên tiếp nhờ các dấu hiệu phục hồi của nền kinh tế Mỹ và cảnh báo về việc cắt giảm lãi suất từ các ngân hàng trung ương.

Giá kim loại mầu khác trên sàn LME: Nhôm tăng 0,1% lên 2.165 USD/tấn; nikel tăng 0,4% lên 16.215 USD/tấn; chì tăng 0,3% lên 2.083 USD/tấn; thiếc tăng 0,3% lên 25.435 USD/tấn; kẽm gần như không đổi ở mức 2.463,5 USD/tấn.

Trên sàn SHFE, giá nhôm giảm 0,6% xuống 18.660 CNY/tấn; kẽm giảm 0,9% xuống 20.675 CNY/tấn; nikel tăng 0,5% lên 127.950 CNY/tấn; chì tăng 0,9% lên 16.360 CNY/tấn; thiếc tăng 0,6% lên 214.230 CNY/tấn. Thiếc là kim loại cơ bản duy nhất có mức tăng hàng tuần trên 2 hai sàn.

Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt kỳ hạn đi ngang vào thứ Sáu (19/1), quặng sắt tại Đại Liên kéo dài đà tăng sang phiên thứ hai, do hy vọng kích thích thêm từ nước tiêu dùng hàng đầu Trung Quốc, trong khi giá ở Singapore giảm thấp hơn.

Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 5/2025 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (Trung Quốc) tăng 1,23% lên 944 CNY (tương đương 131,18 USD)/tấn.

Tuy nhiên, giá quặng sắt chuẩn tháng 2/2024 trên Sàn giao dịch Singapore giảm 0,8% xuống 128,4 USD/tấn trong bối cảnh “kỳ vọng về việc cắt giảm lãi suất sớm đang suy yếu”.

Giá thép chuẩn trên sàn SHFE cao hơn một chút. Thép cây SRBcv1 tăng 0,62%; thép cuộn cán nóng SHHCcv1 tăng 0,4%; thép thanh SWRcv1 tăng 0,54% và thép không gỉ SHSScv1 tăng 0,53%.

Dữ liệu từ Công ty Tư vấn Mysteel cho thấy, sản lượng kim loại nóng trung bình hàng ngày giữa các nhà máy được khảo sát tăng 0,51% so với tuần trước lên khoảng 2,22 triệu tấn trong tuần kết thúc vào ngày 19/1/2024.

Giá các nguyên liệu sản xuất thép khác trên đều tăng, với than cốc và than luyện cốc lần lượt tăng 0,84% và 0,39%.

Các nhà phân tích tại Everbright Futures cho biết, thị trường quặng thời gian gần đây bị ảnh hưởng nhiều hơn bởi yếu tố tâm lý đối với nền kinh tế vĩ mô, mà không có sự thay đổi mạnh mẽ nào từ các nguyên tắc cơ bản. Tâm lý thị trường được nâng cao cũng là sự phục hồi của thị trường chứng khoán Trung Quốc từ mức thấp gần 5 năm trong bối cảnh có dấu hiệu hỗ trợ của nhà nước.

Một số nhà máy thép dự kiến sẽ dự trữ nguyên liệu để duy trì sản xuất trong kỳ nghỉ Tết Nguyên đán vào tháng 2, hỗ trợ giá nguyên liệu sản xuất thép quan trọng.

Các nhà phân tích tại Sinosteel Futures cho biết, thị trường kim loại màu nhận được sự hỗ trợ từ tâm lý được cải thiện trên thị trường tài chính; hỗ trợ cho vay là một số nhà máy dần dần hoạt động trở lại (của các lò được bảo trì trước đó).

Nông sản: Chưa thoát pha giảm

Giá ngô trên sàn Chicago giảm tuần thứ 6 liên tiếp và giá đậu tương giảm tuần thứ 5 liên tiếp, sau dự báo nguồn cung dồi dào kéo thị trường xuống mức thấp nhất trong nhiều năm. Giá lúa mì cũng giảm tuần thứ 3 liên tục, dù tăng trong phiên cuối tuần qua 19/1.

Cụ thể, trên sàn Chicago, giá đậu tương giảm 1/4 US cent xuống 12,13-1/4 USD/bushel. Tính chung cả tuần, giá đậu tương giảm 0,9%. Trong phiên trước đó, giá đậu tương giảm xuống 12,01 USD/bushel - thấp nhất kể từ tháng 11/2021. Tính từ đầu tháng đến nay, giá đậu tương giảm 6,5%.

Giá ngô tăng 1-1/2 US cent lên 4,45-1/2 USD/bushel trong phiên 19/1, nhưng cả tuần giảm 0,3%. Trong phiên trước đó, giá ngô giảm về 4,36-3/4 USD/bushel - thấp nhất kể từ tháng 12/2020. Tính từ đầu tháng đến nay, giá ngô giảm 5,5%.

Giá lúa mì tăng 7-3/4 US cent lên 5,93-1/4 USD/bushel, sau khi giảm xuống mức thấp nhất 7 tuần (5,73-1/4 USD/bushel) trong phiên trước đó. Tính chung cả tuần, giá lúa mì giảm 0,5% - tuần giảm thứ 3 liên tiếp. Tính từ đầu tháng đến nay, giá lúa mì giảm 5,5%.

Nguyên liệu công nghiệp: Giá đồng loạt tăng, cao su tăng tuần thứ 6 liên tục

Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn ICE tăng 0,53 US cent (+2,3%) lên 23,57 US cent/lb, sau khi đạt mức cao nhất 5 tuần (23,75 US cent/lb). Đồng thời, giá đường trắng cùng kỳ hạn trên sàn London tăng 1,9% lên 663,6 USD/tấn.

Sản lượng đường Mexico niên vụ 2023-2024 dự kiến giảm 15% về 4,7 triệu tấn.

Giá cà phê robusta kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn London tăng 65 USD (+2,1%) lên 3.128 USD/tấn và cả tuần tăng 6%. Đồng thời, giá cà phê arabica cùng kỳ hạn trên sàn ICE tăng 2,9% lên 1,8515 USD/lb.

Giá cao su tại Nhật Bản tăng do kế hoạch sản xuất ô tô tích cực và dự báo nhu cầu lạc quan về ô tô năm 2024, đã thúc đẩy triển vọng nhu cầu lốp xe, đồng JPY suy yếu cũng hỗ trợ giá. Cụ thể, giá cao su kỳ hạn tháng 6/2024 trên sàn Osaka tăng 1,4 JPY (+0,52%) lên 271,3 JPY (1,83 USD)/kg - cao nhất kể từ ngày 16/11/2023. Tính chung cả tuần, giá cao su tăng 4,11% và có tuần tăng thứ 6 liên tiếp kể từ tháng 11/2019.

Đồng thời, giá cao su kỳ hạn tháng 5/2024 trên sàn Thượng Hải tăng 100 CNY lên 13.875 CNY (1.928,48 USD)/tấn. Giá cao su kỳ hạn tháng 2/2024 trên sàn Singapore giảm 0,19% xuống 154,3 US cent/kg.

Giá dầu cọ tại Malaysia có tuần tăng thứ 2 liên tiếp, được củng cố bởi sản lượng dồi dào và giá dầu thực vật khác tăng mạnh. Cụ thể, giá dầu cọ kỳ hạn tháng 4/2024 trên sàn Bursa Malaysia tăng 45 ringgit (+1,16%) lên 3.940 ringgit (835,63 USD)/tấn.

Tính cả tuần, giá dầu cọ tăng 2,18%, sau khi tăng 4,7% trong tuần trước đó.

Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam)

(1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg).

(USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn).

Tin bài liên quan