Năng lượng: Giá dầu tăng 4 tuần liên tiếp, khí LNG tăng cao nhất 2 năm
Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu thế giới tăng vào phiên thứ Sáu (17/1), qua đó ghi nhận tuần tăng thứ tư liên tiếp. Cụ thể, dầu thô Brent tăng 55 UScent (+0,7%) lên 81,84 USD/thùng và tăng 2,6% trong tuần: dầu thô Mỹ tăng 72 UScent (+0,9%) lên 79,4 USD/thùng và tăng 3,6% trong tuần.
Kỳ vọng về nhu cầu tốt hơn đã hỗ trợ một phần cho thị trường dầu mỏ. Dữ liệu cho thấy lạm phát đang giảm bớt ở Mỹ - nền kinh tế lớn nhất thế giới, củng cố hy vọng về việc cắt giảm lãi suất. Thống đốc Cục Dự trữ Liên bang (Fed) Christopher Waller cho biết hôm 16/1 rằng, lạm phát có khả năng tiếp tục giảm bớt và có thể cho phép ngân hàng trung ương Mỹ cắt giảm lãi suất sớm hơn và nhanh hơn dự kiến.
Trong khi đó, dữ liệu ngày 17/1 cho thấy, nền kinh tế Trung Quốc đã đạt được tăng trưởng 5%. Cùng với đó, sản lượng lọc dầu năm 2024 của nước này đã giảm lần đầu tiên sau hơn 2 thập kỷ, ngoại trừ năm 2022 bị ảnh hưởng bởi đại dịch, khi các nhà máy cắt giảm sản lượng để ứng phó với nhu cầu nhiên liệu trì trệ và biên lợi nhuận giảm.
Trên thị trường khí đốt, giá khí đốt tự nhiên hóa lỏng (NLG) tại Mỹ tăng lên mức cao nhất 2 năm do dự báo thời tiết lạnh hơn. Cụ thể, giá LNG giao tháng 2/2025 trên Sàn giao dịch hàng hóa New York tăng 17,5 Uscent (+4,3%) lên 4,258 USD/mmBTU - mức đóng cửa cao nhất kể từ ngày 30/12/2022.
Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ (EIA) cho biết, các công ty tiện ích đã rút 258 tỷ feet khối (bcf) khí đốt ra khỏi kho trong tuần kết thúc vào ngày 10/1.
Công ty Tài chính LSEG thông tin, sản lượng khí đốt trung bình tại 48 tiểu bang của Mỹ đã giảm từ 104,2 tỷ feet khối mỗi ngày (bcfd) vào tháng 12/2024 xuống còn 103,3 tỷ cho đến nay trong tháng 1/2025. LSEG dự báo, nhu cầu khí đốt trung bình ở 48 tiểu bang của Mỹ, bao gồm cả xuất khẩu, sẽ tăng từ 145,3 bcfd trong tuần này lên 153,8 bcfd vào tuần tới.
Kim loại: Vàng và đồng giảm giá, đi ngược với nhôm, quặng sắt và thép
Ở nhóm kim loại quý, giá vàng chịu áp lực giảm vào thứ Sáu (17/1) do USD tăng, nhưng tính chung cả tuần vẫn tăng do những bất ổn xung quanh các chính sách của Tổng thống mới đắc cử Donald Trump và những lần đặt cược mới về việc cắt giảm lãi suất tiếp theo.
Cụ thể, vàng giao ngay giảm 0,4% xuống 2.701,03 USD/ounce và vàng Mỹ kỳ hạn tháng 2/2025 giảm 0,1% xuống 2.748,70 USD/ounce.
Các thị trường đang háo hức chờ đợi lễ nhậm chức của ông Trump vào hôm nay 20/1 và các mức thuế quan thương mại rộng rãi của Tổng thống mới được dự báo tiếp tục làm bùng nổ lạm phát và gây ra các cuộc chiến thương mại, có khả năng làm tăng sức hấp dẫn của vàng thỏi như một nơi trú ẩn an toàn.
Ở nhóm kim loại màu, giá đồng kỳ hạn 3 tháng trên Sàn Giao dịch kim loại London (LME) giảm 0,5% xuống 9.180,50 USD/tấn vào thứ Sáu (17/1) dưới áp lực chốt lời sau 11 phiên tăng liên tiếp trước đó.
Ngược lại, giá nhôm tăng lên mức cao nhất 8 tuần do dữ liệu kinh tế mạnh mẽ về quốc gia tiêu thụ kim loại hàng đầu thế giới - Trung Quốc - thu hút các quỹ. Cụ thể, giá nhôm kỳ hạn 3 tháng tăng 1,9% lên 2.684 USD/tấn khi đóng cửa phiên giao dịch, sau khi đạt 2.692 USD/tấn - mức cao nhất kể từ 20/11/2024.
Nền kinh tế Trung Quốc tăng trưởng 5% trong năm 2024, phù hợp với mục tiêu của chính phủ nước này.
Ở nhóm kim loại đen, giá quặng sắt tương lai tăng lên mức cao nhất 4 tuần, được hỗ trợ bởi các lô hàng giảm từ một nhà sản xuất lớn và kỳ vọng ngày càng tăng về việc Fed sẽ tiếp tục cắt giảm lãi suất sau dữ liệu lạm phát của nước này thấp hơn dự kiến.
Cụ thể, hợp đồng quặng sắt giao tháng 5/2025 được giao dịch nhiều nhất trên Sàn Giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc tăng 1,92% lên 797 CNY (108,71 USD)/tấn - mức cao nhất kể từ ngày 18/12/2024. Giá quặng sắt chuẩn tháng 2/2024 trên Sàn Giao dịch Singapore tăng 1,87% lên 102,45 USD/tấn - mức cao nhất kể từ ngày 19/12/2024.
Nhà cung cấp quặng sắt hàng đầu Rio Tinto đã báo cáo lượng hàng xuất xưởng hàng năm thấp nhất trong 2 năm, một phần là do mưa lớn ở Tây Úc đã ảnh hưởng đến sản lượng.
Đồng USD yếu hơn cũng hỗ trợ một phần cho thành phần sản xuất thép chính, khiến hàng hóa được định giá trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Ngoài ra, các dấu hiệu cho thấy nhu cầu quặng có thể tăng cao hơn trong những tuần tới đã hỗ trợ giá, các nhà phân tích cho biết, ám chỉ đến khả năng sản lượng kim loại nóng sẽ tăng.
Các thành phần sản xuất thép khác trên sàn DCE đã tăng giá, với than cốc và than luyện cốc lần lượt tăng 3,83% và 3,45%, do một số nhà giao dịch thanh lý các vị thế bán khống, các nhà phân tích cho biết.
Theo đó, hầu hết các chuẩn mực thép trên Sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) đều tăng: Thép cây tăng 1,22%; thép cuộn tăng 1,09%; thép không gỉ tăng 0,56% và thép thanh tăng 0,46%.
Làn sóng tăng giá gần đây chủ yếu đến từ kỳ vọng cải thiện về mức tiêu thụ thép được thúc đẩy bởi tâm lý vĩ mô. Kỳ vọng bổ sung hàng tồn kho làm trầm trọng thêm tình trạng biến động giá với bối cảnh hàng tồn kho thép thấp.
Nông sản: Đồng loạt tăng giá
Lúa mì mùa Đông đỏ mềm tháng 3/2025 của CBOT đóng cửa phiên 17/1 tăng 1-1,25 cent lên 5,38-3/4 USD/giạ và cả tuần tăng 8 cent/giạ (+1,5%). Lúa mì cứng đỏ mùa Đông tháng 3/2025 của KC tăng 1/4 xu lên 5,48-1/2 USD/giạ và lúa mì Xuân tháng 3/2025 của Minneapolis tăng 2 cent lên 5,83-1/2 USD/giạ.
USD mạnh lên so với các loại tiền tệ chính khác, mặc dù có sự sụt giảm trong tuần qua so với mức cao nhất 2 năm, vẫn là gánh nặng đối với lúa mì Hoa Kỳ do phải cạnh tranh từ nguồn cung giá rẻ hơn từ Biển Đen và Argentina.
Giá ngô tháng 3/2025 của CBOT tăng 9-3/4 cent lên 4,84-1/4 USD/giạ sau khi đạt 4,85 USD/giạ - mức cao nhất trên biểu đồ liên tục của hợp đồng hoạt động mạnh nhất này từ giữa tháng 12/2023 và cả tuần tăng 13-3/4 cent/giạ (+2,9%).
Các hợp đồng gần đây tăng so với mức chênh lệch giá của những tháng trước, phản ánh triển vọng nguồn cung ngô của Hoa Kỳ trong ngắn hạn được thắt chặt, cùng với kỳ vọng tăng diện tích trồng trọt vào năm 2025.
Đậu nành giao tháng 3/2025 tại CBOT tăng 15 cent (+1,47%) lên 10,34 USD/giạ và cả tuần tăng 8-3/4 cent (+0,85%). Giá bột đậu nành giao tháng 3/2025 tăng 2,80 USD (+0,95%) lên 297,20 USD/tấn ngắn và giá dầu đậu nành giao tháng 3/2025 tăng 0,66 cent (+1,5%) lên 45,69 cent/pound.
Các nhà chế biến đậu nành Trung Quốc hiện đã chuyển hướng sang hàng hóa Brazil, thay vì hạt có dầu của Hoa Kỳ, phản ánh giá đậu nành Brazil rẻ hơn cùng với lo ngại Washington sẽ áp thuế đối với hàng hóa Trung Quốc.
Nguyên liệu công nghiệp: Giá đường và dầu cọ giảm, đi ngược với ca cao, cao su và cà phê
Kết thúc tuần giao dịch vừa qua, giá đường thô giảm 0,19 cent về 18,22 cent/lb và giảm 5,2% trong tuần. Đường trắng cũng giảm 1,3% về 478,60 USD/tấn.
Các đại lý cho biết, Ấn Độ có thể sớm nới lỏng hạn chế xuất khẩu đường đã tác động đến giá cả trong tuần. Tuy nhiên, chưa có xác nhận chính thức về bất kỳ hoạt động xuất khẩu nào.
Giá cà phê Arabica tăng 1,2 cent (+1,4%) lên 3,2835 USD/pound. Cà phê Robusta tăng 2,4% lên 5.006 USD/tấn.
Các đại lý cho biết, dòng cà phê từ Brazil - quốc gia sản xuất hàng đầu, sẽ chậm lại trong năm 2025, một năm trái vụ trong chu kỳ cây trồng 2 năm/lần của nước này, trong khi thời tiết khô hạn năm 2024 cũng có thể làm giảm quy mô vụ thu hoạch 2025/2026.
Giá ca cao tương lai tại New York tăng mạnh vào thứ Sáu (17/1), được thúc đẩy bởi nguồn cung thắt chặt trong khi nhu cầu dường như vẫn duy trì tốt, cho dù giá tăng mạnh trong những tháng gần đây. Cụ thể, hợp đồng tương lai ca cao New York trên sàn ICE tăng 671 USD lên 11.173 USD/tấn và tăng 6% trong tuần. Ca cao London tăng 5% lên 8.955 pound/tấn.
Theo dữ liệu từ Hiệp hội Bánh kẹo quốc gia Hoa Kỳ (NCA) công bố ngày 16/1, sản lượng chế biến ca cao ở Bắc Mỹ đã giảm trong quý IV/2024 xuống 102.761 tấn, giảm 1,16% so với cùng kỳ năm trước. Theo BMI, mặc dù đã giảm so với mức cao kỷ lục đạt được vào tháng 12/2024, nhưng giá ca cao và cà phê tương lai vẫn tiếp tục giao dịch ở mức cao.
Giá cao su trên thị trường Nhật Bản giảm vào thứ Sáu (17/1) trong bối cảnh lo ngại về nhu cầu theo mùa và đồng JPY tăng, mặc dù hợp đồng này đã ghi nhận mức tăng hàng tuần lớn nhất kể từ đầu tháng 11/2024 do giá dầu tăng.
Cụ thể, hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 6/2025 trên Sàn giao dịch Osaka giảm 0,4% xuống 384,9 yên (2,47 USD)/kg, nhưng kết thúc tuần tăng 4,42%. Hợp đồng cao su kỳ hạn tháng 3/2024 trên sàn SHFE giảm 0,37% xuống 17.410 CNY (2.375,79 USD)/tấn, nhưng ghi nhận mức tăng hàng tuần 2,53%.
Giá dầu cọ Malaysia tăng vào thứ Sáu (17/1) do hoạt động mua giá hời sau khi giá giảm gần đây và chênh lệch giá so với dầu đậu tương đã được xóa bỏ. Cụ thể, hợp đồng dầu cọ giao tháng 4/2025 trên Sàn giao dịch phái sinh Bursa Malaysia tăng 7 ringgit (+0,17%) lên 4.193 ringgit/tấn. Tuy nhiên, tính chung cả tuần giá giảm 4,51% trong bối cảnh nhu cầu của Ấn Độ thấp và giá dầu thự vật trên sàn DCE giảm.
Nhập khẩu dầu cọ của Ấn Độ, quốc gia nhập khẩu dầu ăn lớn nhất thế giới, dự báo giảm xuống mức thấp nhất 5 năm vào tháng 1/2025 do biên lợi nhuận tinh chế dầu ở mức âm vì chênh lệch giá dầu nhiệt đới so với các đối thủ cạnh tranh thúc đẩy người mua chuyển sang dầu đậu tương có giá cạnh tranh hơn, các quan chức chính phủ và ngành dầu thực vật Ấn Độ cho biết.
Giá một số mặt hàng trên thị trường quốc tế tuần qua
(Nguồn: Trung tâm Thông tin công nghiệp và thương mại, Sở Giao dịch hàng hóa Việt Nam) (1 bushel lúa mỳ/đậu tương = 27,2 kg; 1 bushel ngô = 25,4 kg). (USD Cent/lb | 1USD = 100cent | 1Lb ~ 0,45Kg | Đơn vị giao dịch: lot, 1 lot = 10 tấn). |