Ngân hàng Nhà nước sẽ tăng tần suất bán can thiệp ngoại tệ cho thị trường
Ông Phạm Chí Quang, Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Chính sách tiền tệ (NHNN) cho biết, từ đầu năm 2022, thị trường quốc tế diễn biến phức tạp với nhiều biến động khó lường: căng thẳng Nga - Ukraine ảnh hưởng tiêu cực đến hệ thống kinh tế-tài chính toàn cầu, tác động mạnh lên giá năng lượng và các hàng hóa cơ bản, làm trầm trọng thêm hệ lụy của sự đứt gãy chuỗi cung ứng toàn cầu.
Các ngân hàng trung ương đẩy nhanh quá trình thắt chặt chính sách tiền tệ, tăng lãi suất điều hành nhằm kiểm soát áp lực lạm phát tăng cao kỷ lục trên toàn cầu; thị trường tài chính tiền tệ biến động mạnh.
Trong bối cảnh đó, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) đã liên tiếp tăng lãi suất điều hành 3 lần chỉ trong 6 tháng đầu năm 2022, mức tăng lãi suất ngày 15/6 (0,75 điểm %) lớn nhất trong vòng 28 năm qua và dự kiến tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ trong thời gian tới.
Đồng USD quốc tế tăng giá mạnh (chỉ số DXY tăng khoảng 10% từ đầu năm 2022), khiến đồng tiền của nhiều nền kinh tế lớn và đang phát triển mất giá mạnh. Những diễn biến trên tác động bất lợi tới cân đối cung cầu ngoại tệ và tâm lý thị trường trong nước, gây áp lực đối với sự ổn định của tỷ giá và thị trường ngoại tệ.
Trước bối cảnh đó, tỷ giá USD/VND không có xu hướng giảm như năm 2021, mà từ đầu năm 2022 đến nay tăng khoảng 2% so với cuối năm 2021.
Mặc dù thị trường quốc tế biến động mạnh, nhưng thị trường ngoại tệ trong nước vẫn hoạt động ổn định, thanh khoản thị trường thông suốt, các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của nền kinh tế đều được đáp ứng đầy đủ, kịp thời, đặc biệt là nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất kinh doanh trong bối cảnh giá năng lượng và giá hàng hóa cơ bản tăng mạnh trước diễn biến quốc tế phức tạp như đề cập ở trên.
Trong bối cảnh khó khăn, phức tạp nêu trên, Ngân hàng Nhà nước điều hành tỷ giá theo hướng vừa tạo dư địa để tỷ giá diễn biến linh hoạt, hấp thụ các cú sốc bên ngoài, vừa can thiệp thị trường ngoại tệ để hạn chế biến động quá mức của tỷ giá, góp phần bình ổn thị trường ngoại tệ, ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát.
Từ đầu năm 2022, Ngân hàng Nhà nước đã bán ngoại tệ can thiệp với các hình thức phù hợp để bổ sung nguồn cung ngoại tệ cho thị trường, qua đó đáp ứng các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của nền kinh tế, đồng thời duy trì thanh khoản VND dồi dào trên thị trường để hỗ trợ bình ổn mặt bằng lãi suất VND, qua đó hỗ trợ quá trình phục hồi và phát triển kinh tế-xã hội theo Nghị quyết 43 của Quốc hội và Nghị quyết 11 của Chính phủ.
Tỷ giá USD/VND hiện nay tăng khoảng 2% so với cuối năm 2021 là phù hợp với điều kiện, diễn biến thị trường trong, ngoài nước, phù hợp với mục tiêu xuyên suốt của điều hành chính sách tiền tệ là góp phần ổn định thị trường tiền tệ, kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát.
Thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục điều hành tỷ giá phù hợp nhằm thực hiện mục tiêu này, đồng thời hỗ trợ thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế xã hội.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ phối hợp điều hành đồng bộ thanh khoản VND để hỗ trợ sự ổn định của tỷ giá, thị trường ngoại tệ và mặt bằng lãi suất. Những năm gần đây, khi điều kiện thị trường thuận lợi, Ngân hàng Nhà nước đã mua được lượng lớn ngoại tệ để tăng Dự trữ ngoại hối.
Trong bối cảnh thị trường diễn biến bất lợi, nhiều áp lực như hiện nay, với quy mô dự trữ ngoại hối đã được Ngân hàng Nhà nước mua vào và củng cố mạnh mẽ trong các giai đoạn trước đây, Ngân hàng Nhà nước đã, đang và sẽ tiếp tục bán ngoại tệ để bình ổn thị trường.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước sẽ tăng tần suất bán can thiệp ngoại tệ để sẵn sàng bổ sung nguồn cung ngoại tệ cho thị trường thường xuyên hơn nữa.
Qua đó, tạo điều kiện cho hệ thống tổ chức tín dụng đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu ngoại tệ hợp pháp của tổ chức và cá nhân, trong đó có nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất kinh doanh trong nước và xuất khẩu, qua đó góp phần bình ổn thị trường và hỗ trợ phục hồi kinh tế.
UOB: VND chịu áp lực giảm giá nếu Fed tăng lãi suất trong nửa cuối năm
Theo Báo cáo Tăng trưởng kinh tế quý II/2022 của UOB, GDP thực tế của Việt Nam trong quý I/2022 đã tăng 5,03% so với cùng kỳ năm ngoái, tiếp nối mức tăng 5,22% trong quý IV/2021 nhờ lĩnh vực dịch vụ phục hồi sau khi nền kinh tế được mở cửa trở lại thông qua việc nới lỏng hạn chế về di chuyển và giãn cách.
Lĩnh vực sản xuất tiếp tục dẫn đầu phần đóng góp vào tăng trưởng, nhưng tăng mạnh nhất là lĩnh vực dịch vụ nói chung với mức tăng 4,58% so với cùng kỳ năm ngoái, tăng từ mức 1,22% trong quý 4/2021 và 3,62% trong quý I năm ngoái.
Rõ ràng các hoạt động dịch vụ đã hưởng lợi từ việc dỡ bỏ các hạn chế COVID-19 được áp dụng từ cuối năm 2021.
Dữ liệu gần đây cho thấy, đà tăng trưởng cơ bản của Việt Nam vẫn giữ nguyên trong quý II/2022. Lĩnh vực sản xuất tiếp tục tăng mạnh, 5 tháng đầu năm ghi nhận mức tăng trưởng 9,24% so với cùng kỳ năm trước, từ mức 8,28% trong 4 tháng đầu năm và so với mức tăng trưởng mạnh mẽ 12,59% trong 5 tháng đầu năm năm 2021.
Kết quả này này cũng được phản ánh trong Chỉ số Quản lý thu mua (PMI) tính đến tháng 5 năm nay là tháng thứ 8 chỉ số này tiếp tục gia tăng.
Một chỉ báo tương lai là dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đã phần nào tăng trở lại trong tháng 5, bất chấp bối cảnh bất ổn từ xung đột Nga-Ukraine và giá hàng hóa tăng.Vốn FDI đăng ký từ đầu năm giảm 16,3% so với cùng kỳ xuống 11,71 tỷ USD, tháng thứ 4 liên tiếp có mức đăng ký giảm. Số vốn FDI đăng ký mạnh mẽ vào năm 2021 ở mức 31,15 tỷ USD cũng là yếu tố ảnh hưởng đến số liệu giảm sút của năm nay.
Số liệu dòng vốn FDI trên cơ sở một năm so với cùng kỳ ở mức 28 tỷ USD, tương đương với con số đạt được trong năm 2020 khi đại dịch bùng phát. Về phía người tiêu dùng, việc dỡ bỏ các hạn chế COVID-19 trong nước và mở lại các hoạt động du lịch quốc tế đã tạo ra sức sống mới trong lĩnh vực dịch vụ.
Tổng thể thương mại bán lẻ trong 5 tháng đầu năm tăng 9,69% so với cùng kỳ năm trước, so với mức 6,54% trong 4 tháng đầu năm và trước mức giảm 3% vào năm 2021, dẫn đầu là dịch vụ du lịch (tăng 34,7% so với đầu năm), dịch vụ lưu trú và ăn uống (tăng 15,75%).
UOB kỳ vọng các lĩnh vực phụ thuộc vào du lịch như lưu trú và ẩm thực sẽ tăng trưởng trở lại trong quý II/2012 sau 9 quý giảm liên tiếp.
"Dựa vào dữ liệu mới nhất cũng như các khó khăn phía trước, chúng tôi giữ nguyên dự báo tăng trưởng GDP năm 2022 của Việt Nam ở mức 6,5%, phù hợp với chỉ tiêu kế hoạch của Chính phủ Việt Nam là 6,0 - 6,5%", báo cáo của UOB viết.
Dự báo của UOB trên cơ sở tăng trưởng GDP trong quý 2/2022 sẽ đạt 6% so với cùng kỳ năm trước và sau đó tăng lên 7,6% trong quý 3/2022.
Tuy nhiên, các chuyên gia cũng tiếp tục nhấn mạnh tới những thách thức đối với triển vọng này. Đó là xung đột Nga-Ukraine và tác động của nó đối với giá hàng hóa (và dẫn đến rủi ro lạm phát đối với nhu cầu trong và ngoài nước); gián đoạn chuỗi cung ứng toàn cầu; chính sách thắt chặt tiền tệ trên toàn cầu, và 4) rủi ro COVID-19.
Sau khi chạm mức thấp nhất trong gần một năm ở mức 1,4% vào tháng 2, lạm phát ở Việt Nam đã có xu hướng tăng lên 2,86% vào tháng 5, vẫn thấp hơn mức mục tiêu 4% của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Giá năng lượng và thực phẩm toàn cầu tăng cao cũng như sự gián đoạn chuỗi cung ứng đã góp phần làm tăng mức lạm phát ở Việt Nam. Đặc biệt, chi phí liên quan đến vận tải đã tăng với tốc độ hai con số trong 14 tháng qua.
Do Việt Nam có khả năng cung cấp thực phẩm trong nước, áp lực tăng giá phần lớn bị chi phối bởi các thành phần liên quan đến vận tải của rổ giá tiêu dùng, chiếm khoảng 3/4 mức lạm phát cho đến nay, so với mức bình quân 50% vào năm 2021.
"Với xung đột Nga-Ukraine kéo dài hơn 100 ngày và sự căng thẳng cũng như các lệnh trừng phạt chưa có dấu hiệu giảm bớt, chúng tôi dự đoán tỷ lệ lạm phát chính của Việt Nam ở mức 3,7% vào năm 2022 và tăng lên 5% vào năm 2023", UOB dự báo.
Tuy nhiên, với lập trường thích ứng để hỗ trợ tăng trưởng, với triển vọng không chắc chắn từ môi trường địa chính trị và bối cảnh lạm phát trong nước tiếp tục được quản lý tốt, UOB cho rằng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có đủ khả năng để giữ ổn định lãi suất chính sách của mình ngay từ bây giờ để hỗ trợ các nỗ lực phục hồi kinh tế.
UOB kỳ vọng lãi suất tái cấp vốn hiện tại ở mức 4,0% và lãi suất tái chiết khấu là 2,5% duy trì ở mức thấp kỷ lục này cho đến ít nhất là cuối năm 2022.
Tuy nhiên, UOB dự báo: "Với động thái quyết liệt hơn trong việc thắt chặt chính sách từ Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ, chúng tôi dự đoán Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ có xu hướng khởi đầu chu kỳ tăng lãi suất từ quý II/2023 hoặc sớm hơn, nếu đà tăng trưởng vẫn tiếp tục duy trì và các rủi ro bên ngoài đáng quan ngại hơn".
VND không đứng ngoài xu thế giảm giá của các đồng tiền châu Á từ động thái tăng lãi suất quyết liệt của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ và lo ngại về sự suy thoái sâu hơn của Trung Quốc.
Tỷ giá USD/VND đã tăng khoảng 1,7% trong quý II/2022 lên 23.215, mức cao nhất kể từ tháng 8 năm 2020.
Được hỗ trợ bởi triển vọng tăng trưởng mạnh mẽ và lạm phát trong nước vẫn được kiểm soát, xu hướng giảm của VND là khiêm tốn khi so sánh với Chỉ số các đồng tiền châu Á (ADXY) đã giảm hơn 4% trong quý.
Trong tương lai, UOB đánh giá các đồng tiền mới nổi ở châu Á, bao gồm VND sẽ đối mặt với áp lực giảm giá thêm nữa khi Cục Dự trữ Liên bang Mỹ có nhiều khả năng sẽ tiếp tục tăng thêm lãi suất trong nửa cuối năm 2022.
"Chúng tôi cập nhật dự báo tỷ giá USD/VND để phản ánh xu hướng này. Dự báo cập nhật của chúng tôi là tỷ giá USD/VND sẽ đạt mốc 23.400 trong quý III/2022, 23.500 trong quý IV/2022, 23.550 trong quý I/2023 và 23.600 trong quý II/2023", UOB đưa ra dự báo.
Tỷ giá chịu áp lực tăng, nhưng không lớn
Các chuyên gia kinh tế nhận định, tác động từ thắt chặt tiền tệ của Fed đến Việt Nam là không nhiều, vì cơ quan quản lý, các doanh nghiệp cũng như nhà đầu tư đều đã lường trước được động thái này.
Theo chuyên gia tài chính - ngân hàng, TS. Cấn Văn Lực, việc Fed tăng lãi suất sẽ có một số tác động đến Việt Nam, nhưng không quá lớn. Điều này sẽ khiến chi phí vay và trả nợ nước ngoài bằng USD tăng lên, đồng thời tác động một phần tới tỷ giá.
Ngoài ra, động thái tăng lãi suất của Fed có thể tạo nên sự dịch chuyển dòng vốn đầu tư. Dòng vốn sẽ quay về Mỹ vì lãi suất USD ở đó cao hơn và một phần cũng quay trở lại châu Âu vì mức độ rủi ro ở đó được đánh giá thấp.
Riêng tỷ giá USD/VND năm nay sẽ gặp nhiều áp lực hơn năm ngoái, song theo TS. Lực, tỷ giá vẫn sẽ ở trạng thái tương đối ổn định. Dự kiến, tỷ giá năm nay chỉ tăng khoảng 1-1,5% so với năm ngoái do quan hệ cung - cầu ngoại tệ tương đối tốt.
Công ty cổ phần Chứng khoán VNDirect kỳ vọng, dự trữ ngoại hối của Việt Nam đạt 122,5 tỷ USD vào cuối năm và tỷ giá tăng không quá 2% trong cả năm 2022 do giải ngân vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng trưởng ổn định và nguồn kiều hối dồi dào đóng góp ổn định vào thị trường ngoại hối.
Các nhà phân tích của Công ty cổ phần Chứng khoán Rồng Việt (VDSC) cho biết, áp lực điều hành tỷ giá từ nay đến cuối năm vẫn còn rất lớn, VND sẽ bị mất giá nhưng không quá mạnh như các đồng tiền khác dựa trên một số cơ sở. USD đang neo ở mức cao kỷ lục, lộ trình tăng lãi suất của Fed đã phản ánh phần nhiều vào đợt tăng từ đầu năm đến nay, chỉ số USD sẽ khó giảm mạnh, nhưng cũng khó tăng cao hơn từ vùng hiện tại.
Theo nhận định của VDSC, diễn biến cán cân thương mại và cung - cầu USD trong nước có thể tạo áp lực lên tỷ giá trong một số thời điểm, nhưng NHNN vẫn có khả năng can thiệp để cân bằng lại khi cần thiết. Số liệu của Tổng cục Hải quan cũng cho thấy, cán cân thương mại thâm hụt khoảng 1,7 tỷ USD trong tháng 5/2022 và lũy kế 5 tháng đầu năm thì thặng dư thương mại đạt 632 triệu USD.
Về cơ bản, Nhóm phân tích VDSC cho rằng, cán cân thanh toán của Việt Nam năm 2022 sẽ đối diện với nhiều làn gió “ngược”, bao gồm tình hình giá nguyên liệu và nhập khẩu xăng dầu tăng cao - là yếu tố không khả quan đối với cán cân thương mại. VDSC kỳ vọng, VND chỉ mất giá khoảng 2-2,5% trong năm 2022, cao hơn 1 điểm % so với kỳ vọng đưa ra đầu năm nay.
Mặc dù đánh giá lần tăng lãi suất này của Fed không đáng lo ngại, song giới chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần phải theo dõi sát động thái của Fed từ nay đến cuối năm.
Theo TS. Cấn Văn Lực, nếu Fed tăng lãi suất nhiều lần với cường độ mạnh để kiểm soát lạm phát, thì chắc chắn tỷ giá USD/VND sẽ khó tránh khỏi tác động tâm lý. Bên cạnh đó, USD mạnh có thể gây áp lực lên tỷ giá hối đoái Việt Nam.
Thực tế, USD mạnh kéo tỷ giá USD/VND tăng 1,7% kể từ đầu năm 2022. Tuy nhiên, VND vẫn là một trong những đồng tiền ổn định nhất khu vực. Các chuyên gia phân tích của Công ty cổ phần Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) dự báo, biến động của tỷ giá trong thời gian tới không quá lớn, cả năm dao động quanh mức trên dưới 2%.
Nhóm tác giả Viện Đào tạo và Nghiên cứu BIDV cho rằng, việc Fed tăng lãi suất sẽ khiến USD lên giá so với hầu hết các đồng tiền khác, trong đó có VND, tạo sức ép lớn hơn lên tỷ giá USD/VND. Áp lực mất giá của nhân dân tệ sẽ giảm dần trong nửa cuối năm 2022 và định hướng điều hành tỷ giá linh hoạt tiếp tục được khẳng định trong cuộc họp mới nhất của Ngân hàng Nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước cũng phát đi tín hiệu sẵn sàng ứng phó với áp lực lớn hơn nữa từ những biến động bên ngoài trong thời gian tới. Dự trữ ngoại hối của Việt Nam hiện tương đương 3,1 tháng nhập khẩu. Với việc Fed đẩy nhanh lộ trình tăng lãi suất USD để kiềm chế lạm phát năm nay, các chuyên gia cho rằng, dư địa để Ngân hàng Nhà nước duy trì chính sách tiền tệ ngày một thu hẹp.
Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước sẽ nỗ lực duy trì chính sách tiền tệ phù hợp, chưa vội thắt chặt chính sách ngay để hỗ trợ nền kinh tế phục hồi và ổn định thị trường. Ngân hàng Nhà nước vẫn ưu tiên mục tiêu duy trì lãi suất cho vay thấp để hỗ trợ doanh nghiệp, chỉ số giá tiêu dùng bình quân nửa đầu năm 2022 dự báo ở mức 2,5% và nhu cầu trong nước vẫn yếu, chưa phục hồi hoàn toàn về mức trước đại dịch.
TS. Hồ Quốc Tuấn, Giảng viên Đại học Bristol (Anh) nhận định, so với mức tăng 0,25% của những lần trước, việc Fed tăng thêm 0,75% có thể tác động rõ nét hơn, nhưng vẫn không phải quá lớn đến Việt Nam, vì vay ngoại tệ của Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp FDI. Về tỷ giá, chính sách của Ngân hàng Nhà nước là tiếp tục điều hành linh hoạt, ổn định, song doanh nghiệp cũng phải chủ động thích ứng.
6 tháng đầu năm: Tín dụng trên địa bàn TP.HCM tăng đến 9,3% so với cuối năm 2021
Tăng trưởng dư nợ tín dụng trên địa bàn TP. HCM 6 tháng đầu năm đạt mức cao nhất trong nhiều năm trở lại đây. Theo ông Nguyễn Đức Lệnh, Phó giám đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) chi nhánh TP HCM, yếu tố chính thúc đẩy tăng trưởng tín dụng là sự phục hồi nhanh chóng của nền kinh tế thành phố, của doanh nghiệp trên tất cả lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế sau khi dịch bệnh được kiểm soát. Trong đó, lĩnh vực thương mại - dịch vụ có mức tăng trưởng cao nhất, tăng 4,83%, phản ánh đúng xu hướng phục hồi và khả năng phục hồi cũng như những lĩnh vực chịu ảnh hưởng trực tiếp nhất từ dịch bệnh.
Các ngân hàng đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, cho hoạt động sản xuất kinh doanh để phục hồi và tăng trưởng.
Đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp và thực hiện tốt nhiệm vụ chương trình phục hồi kinh tế Thành phố, ngành ngân hàng tiếp tục cơ cấu lại nợ cho doanh nghiệp, miễn giảm lãi suất và cho vay mới với lãi suất thấp để doanh nghiệp phục hồi và tăng trưởng.
Cũng theo NHNN chi nhánh TP.HCM, đến nay dư nợ hỗ trợ cho doanh nghiệp theo cơ chế Thông tư 01, 03 và Thông tư 14 đạt 563.000 tỷ đồng cho gần 1,3 triệu khách hàng.
Cho vay ngắn hạn tiền đồng với lãi suất thấp đối với 5 nhóm ngành: doanh nghiệp nhỏ và vừa, xuất khẩu; nông nghiệp và phát triển nông thôn; công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao đạt: 202.000 tỷ đồng cho hơn 35.000 khách hàng.
Đây là chương trình mang lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp, cho các nhóm ngành lĩnh vực là động lực tăng trưởng kinh tế, bởi lãi suất cho vay thấp và hiệu quả tín dụng mang lại rất cao cho cả ngân hàng và doanh nghiệp.
Qua đó, tiếp tục tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh tiếp cận tốt nhất vốn tín dụng ngân hàng, cũng như trực tiếp tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp thông qua các chương trình hành động cụ thể và thiết thực như: chương trình kết nối ngân hàng doanh nghiệp; cho vay bình ổn thị trường; cho vay khu công nghiệp, khu chế xuất; cho vay lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn….
Trong đó, chương trình kết nối ngân hàng - doanh nghiệp trong 6 tháng đầu năm đã giải ngân cho vay gần 100.000 tỷ đồng, tiếp tục tạo thuận lợi về vốn và về lãi suất cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh và các hợp tác xã.
Ngoài ra, ngành ngân hàng Thành phố phối hợp với các sở, ngành, quận, huyện tổ chức các chương trình kết nối chuyên đề để thông tin cho doanh nghiệp về cơ chế chính sách; về lĩnh vực du lịch dịch vụ; lĩnh vực xuất nhập khẩu và các doanh nghiệp trong khu công nghiệp - khu chế xuất.
Thực hiện cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, với nội hàm tiếp tục cải cách hành chính trong ngành ngân hàng; tổ chức triển khai thực hiện các giải pháp tiền tệ tín dụng và ngân hàng để hỗ trợ doanh nghiệp.
Tổ chức thực hiện Thông tư 03 về hỗ trợ 2% lãi suất cho doanh nghiệp theo gói hỗ trợ 40.000 tỷ đồng từ Nghị quyết 11 và Nghị định 31 của Chính phủ để tạo điều kiện cho doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ kinh doanh phục hồi, tăng trưởng trong bối cảnh xuất hiện nhiều khó khăn thách thức.
Phó giám đốc NHNN chi nhánh TP.HCM Nguyễn Đức Lệnh cho rằng, việc tiếp cận tốt và phát huy hiệu quả chính sách cùng với sự năng động, sáng tạo của doanh nghiệp và trách nhiệm sử dụng vốn vay hiệu quả từ doanh nghiệp sẽ là những yếu tố quan trọng góp phần cùng ngành ngân hàng đưa cơ chế chính sách hỗ trợ của Chính phủ và NHNN đi vào thực tế cuộc sống có hiệu quả trong thời gian tới.
Ngân hàng có thêm thời gian xử lý nợ xấu
Tại Nghị quyết kỳ họp thứ ba, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã thống nhất kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết số 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng từ ngày 15/8/2022 đến hết ngày 31/12/2023.
Trong thời gian kéo dài trên, Quốc hội đề nghị Chính phủ có giải pháp khắc phục những khó khăn, vướng mắc nêu tại Báo cáo số 174/BC-CP ngày 11/5/2022, chỉ đạo tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị gắn với trách nhiệm trong tổ chức thực hiện Nghị quyết, bảo đảm tính hiệu lực, hiệu quả của Nghị quyết. Đồng thời, Quốc hội giao Chính phủ nghiên cứu, đề xuất luật hóa các quy định về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu cùng với việc rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Các tổ chức tín dụng; trình Quốc hội xem xét chậm nhất tại kỳ họp thứ năm (tháng 5/2023).
Nghị quyết cũng nhấn mạnh, các cân đối lớn của nền kinh tế còn tiềm ẩn rủi ro, bao gồm nguy cơ nợ xấu, lạm phát tăng cao; sản xuất, kinh doanh còn gặp khó khăn; công tác thoái vốn, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước chưa có chuyển biến tích cực… Do đó, Nghị quyết yêu cầu Chính phủ và các cơ quan kiểm soát chặt chẽ lạm phát, nợ xấu và có giải pháp căn cơ, bền vững nhằm định hướng nguồn lực của nền kinh tế vào sản xuất, kinh doanh.
Theo chuyên gia kinh tế - TS. Trần Du Lịch, quá trình xử lý nợ xấu theo Nghị quyết 42/2017/QH14 còn gặp nhiều khó khăn về quyền thu giữ tài sản bảo đảm, áp dụng thủ tục rút gọn, áp dụng quy định về thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm, thủ tục thay đổi đăng ký giao dịch bảo đảm khi mua bán khoản nợ xấu có tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất. Vì vậy, cần thiết kéo dài thời gian thực hiện Nghị quyết và hoàn thiện các quy định về xử lý nợ xấu.
Ông Nguyễn Văn Du, quyền Chánh thanh tra Cơ quan Thanh tra giám sát NHNN cho biết, thời gian qua, Nghị quyết 42/2017/QH14 về xử lý nợ xấu đã tạo cơ sở pháp lý để các tổ chức tín dụng có thể xử lý nợ xấu tốt hơn. Dù vậy, vẫn có một số biện pháp chưa phát huy hết hiệu quả và Quốc hội vừa thống nhất kéo dài hiệu lực nghị quyết này đến hết năm 2023 trong thời gian chuẩn bị việc luật hóa xử lý nợ xấu.
Theo ông Du, sở dĩ việc xử lý nợ xấu của ngân hàng còn khó là dù bất động sản từ cuối năm 2021 đến đầu năm 2022 có giá rất cao, song số giao dịch thành công không nhiều, vẫn ít người mua. Trong khi đó, một số lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng bởi dịch Covid-19 như khách sạn, nhà hàng cũng phải rao bán trong bối cảnh sự phục hồi của ngành du lịch chưa mạnh mẽ.
Mặt khác, một trong những kênh xử lý nợ xấu là sàn mua bán nợ của Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC) đã đi vào hoạt động từ cuối năm ngoái, nhưng chưa đạt được như kỳ vọng. Các ngân hàng chủ yếu tự xử lý nợ, thay vì đưa qua sàn mua bán nợ VAMC, do sàn chưa sôi động.
Lãnh đạo một ngân hàng cho biết, các tài sản nợ xấu mà ngân hàng đưa ra bán đấu giá được thực hiện theo phán quyết của tòa án, các quy định của Nghị quyết 42/2017/QH14 về xử lý nợ xấu, hoặc theo thỏa thuận với khách hàng. Lần đầu tiên đấu giá tài sản nợ xấu, ngân hàng thường đưa ra mức giá khởi điểm bằng nợ gốc cộng với một khoản lãi nhất định. Trong khi đó, nhiều năm trước, khi quyết định cho vay, một số nhà băng đã định giá tài sản thế chấp cao hơn giá trị thực, dẫn đến số vốn cho vay cao gấp nhiều giá trị tài sản...
Thanh toán không tiền mặt đang phát triển bùng nổ, đồng nghĩa tiện ích cho người tiêu dùng ngày càng gia tăng. Tuy nhiên, cùng với đó, tội phạm mạng cũng ngày càng tinh vi gây ám ảnh người dùng.
Ông Lưu Trung Thái, Phó chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc MB cho hay, chuyển đổi số đang là yêu cầu bắt buộc với các ngân hàng, bởi hiện nay, hầu hết khách hàng không còn muốn giao dịch tại quầy nữa, mà chủ yếu giao dịch online. Năm 2021, kênh số chiếm hơn 92,3% số lượng giao dịch tại MB. Nếu như năm 2019, số lượng khách hàng mới của MB chỉ đạt 1,2 triệu, thì năm 2021, con số này đã tăng đột biến hơn 6 triệu khách hàng khách mới chỉ trong 1 năm.
Việt Nam đang là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng thanh toán không tiền mặt nhanh nhất khu vực, với tốc độ tăng trưởng về giao dịch thanh toán di động bình quân hàng năm đạt hơn 90%. Hiện tại, nhiều dịch vụ ngân hàng đã có thể được sử dụng hoàn toàn trên kênh số như: mở tài khoản thanh toán, thẻ ngân hàng, chuyển tiền, gửi tiết kiệm...; nhiều ngân hàng Việt Nam có trên 90% giao dịch trên kênh số; gần 70% người trưởng thành có tài khoản thanh toán; khoảng 1,1 triệu tài khoản Mobile Money đã được mở, khoảng 60% trong đó được mở tại khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa...
Ông Từ Tiến Phát, Tổng giám đốc Ngân hàng ACB cho rằng, chính Thông tư 16/2020/TT-NHNN cho phép mở tài khoản eKYC và Thông tư 17/2021/TT-NHNN đã tạo nên bước chuyển lớn cho thị trường, lượng tài khoản mở mới của ngân hàng tăng trưởng ấn tượng ngay cả trong thời điểm giãn cách xã hội.
Hiện nay, để thúc đẩy thanh toán không dùng tiền mặt, các ngân hàng đang ra sức hợp tác với các đơn vị cung cấp dịch vụ mở rộng hệ sinh thái, đa dạng hóa dịch vụ, sản phẩm. Đây cũng là yếu tố quan trọng để các ngân hàng thương mại thu hút khách hàng. Lãnh đạo các ngân hàng thừa nhận, chuyển đổi số mang lại nhiều cơ hội cho các ngân hàng, song cũng đặt ra nhiều thách thức khi mức độ cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn, với sự tham gia của Mobile Money, trung gian thanh toán...
Thanh toán không dùng tiền mặt đang là xu hướng, dự báo tiếp tục phát triển mạnh ngay cả khi dịch Covid-19 được kiểm soát. Tuy vậy, an ninh, an toàn bảo mật đang là nỗi lo và là rào cản lớn nhất.
Ông Lê Thế Vinh, đại diện lãnh đạo Vụ Quản lý doanh nghiệp (Bộ Thông tin và Truyền thông) cho rằng, đi đôi với sự phát triển của thanh toán cũng có những rủi ro, mất an toàn, với số lượng phạm tội ngày càng tăng, phương thức phạm tội ngày càng đổi mới, tinh vi hơn, mang tính có tổ chức hơn và gây ra thiệt hại ngày càng nghiêm trọng hơn. Những vấn đề đó trở thành nguy cơ đe dọa sự phát triển lành mạnh, ổn định của thị trường thanh toán số của Việt Nam nói riêng.
“Mặc dù các tổ chức tài chính, ngân hàng luôn là đơn vị đi đầu bảo vệ an toàn thông tin cho hệ thống, cũng như đầu tư các giải pháp, công cụ ngăn chặn rủi ro, mất mát, nhưng thời gian qua, có nhiều ngân hàng đang bị khách hàng khiếu nại liên quan đến giao dịch bất thường mà khách hàng không thực hiện dẫn đến mất tiền trong tài khoản. Các sự vụ này có thể làm giảm niềm tin của khách hàng với hệ thống ngân hàng, dẫn đến nhiều tác động tiêu cực. Các sự cố chủ yếu đến từ nhận thức an toàn thông tin của người dân chưa cao, ví dụ hay click vào đường link lạ, không phân biệt được web sử dụng…”, ông Vinh nhận định.
Theo Kaspersky Việt Nam, rủi ro xảy ra trong giao dịch thanh toán điện tử chủ yếu tới từ phía người dùng cuối chưa có đủ nhận thức về tính an toàn thông tin, tính bảo mật trên các thiết bị của bản thân, cũng như cách họ sử dụng và vận hành không gian mạng. Do đó, nhận thức của người dùng là yếu tố vô cùng quan trọng trong thanh toán điện tử, bởi nếu nhận thức không đủ thì rất dễ rơi vào bẫy của các kẻ gian, dẫn tới việc bị mất tiền, mất thông tin cá nhân.
Nhiều chuyên gia bảo mật cũng cho biết, việc khách hàng dễ dàng cung cấp thông tin cá nhân đang tạo cơ hội cho tội phạm mạng tấn công. Chính vì vậy, công tác bảo mật hiện nay cần nhắm tới nâng cao nhận thức người dùng, chứ không chỉ tăng bảo mật từ phía đơn vị cung ứng dịch vụ thanh toán.
Theo Trung tướng Tô Văn Huệ, Cục trưởng Cục Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội (Bộ Công an), Bộ đã xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và đang nghiên cứu cơ chế mở, cho phép các doanh nghiệp hoạt động trên các lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, ví điện tử, Mobile Money, viễn thông... được phép tiếp cận, xác thực với nguồn dữ liệu tin cậy này, giảm thiểu các rủi ro trong quá trình hoạt động cung cấp dịch vụ.
Kết nối Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư cũng là mong mỏi của các ngân hàng. Ông Lưu Trung Thái cho rằng, việc cho phép các ngân hàng tiếp cận kho dữ liệu gốc này sẽ giúp ngành ngân hàng nâng cao tính bảo mật và phục vụ khách hàng tốt hơn.
Rút một phần tiền gửi trước hạn: Quy định mới giúp khách hàng hưởng lợi
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vừa ban hành Thông tư 04/2022/TT-NHNN quy định về việc áp dụng lãi suất rút trước hạn tiền gửi tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Thông tư 04/2022/TT-NHNN nêu rõ, có 4 hình thức tiền gửi rút trước hạn gồm: Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn; Tiền gửi có kỳ hạn; Chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu, tín phiếu và trái phiếu do TCTD phát hành; Các hình thức nhận tiền gửi có kỳ hạn khác theo quy định tại Luật Các TCTD.
Rút trước hạn tiền gửi là trường hợp khách hàng rút một phần hoặc toàn bộ tiền gửi trước ngày đến hạn, ngày chi trả hoặc ngày thanh toán của khoản tiền gửi. TCTD và khách hàng thỏa thuận để phù hợp với các quy định của NHNN đối với từng hình thức tiền gửi cụ thể.
Thông tư quy định, trường hợp khách hàng rút trước hạn toàn bộ tiền gửi, TCTD áp dụng mức lãi suất tối đa bằng mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thấp nhất của TCTD đó theo đối tượng khách hàng và/hoặc theo loại đồng tiền đã gửi tại thời điểm khách hàng rút trước hạn tiền gửi.
Trong trường hợp khách hàng rút trước hạn một phần tiền gửi. Đối với phần tiền gửi rút trước hạn, TCTD áp dụng mức lãi suất tối đa bằng mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn thấp nhất của TCTD đó theo đối tượng khách hàng và/hoặc theo loại đồng tiền đã gửi tại thời điểm khách hàng rút trước hạn tiền gửi. Đối với phần tiền gửi còn lại, TCTD áp dụng mức lãi suất đang áp dụng đối với khoản tiền gửi mà khách hàng rút trước hạn một phần.
Quy định này giúp khách hàng được hưởng lợi khi có nhu cầu rút một phần tiền gửi tiết kiệm, tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức tín dụng áp dụng thống nhất quy định lãi suất đối với trường hợp rút tiền gửi trước hạn, đồng thời tạo điều kiện để tổ chức tín dụng phát triển các sản phẩm huy động vốn ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu thị trường trong bối cảnh thị trường tiền tệ hiện nay.
Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/8/2022 và thay thế Thông tư số 04/2011/TT-NHNN về quy định áp dụng lãi suất trong trường hợp tổ chức, cá nhân rút tiền gửi trước hạn tại TCTD.
Đối với các thỏa thuận lãi suất rút trước hạn tiền gửi trước ngày Thông tư này có hiệu lực thi hành, TCTD và khách hàng tiếp tục thực hiện theo thỏa thuận đã cam kết cho đến ngày hết hạn, ngày chi trả hoặc ngày thanh toán của khoản tiền gửi hoặc thỏa thuận thực hiện theo quy định tại Thông tư này.