Các Hiệp hội doanh nghiệp cho rằng Bộ luật có phạm vi điều chỉnh lớn và ảnh hưởng sâu rộng tới môi trường kinh doanh tại Việt Nam cũng như quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam đối với thế giới.
Bảy hiệp hội nêu trên gồm Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), Hiệp hội Da giày - Túi xách Việt Nam (LEFASO), Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (JCCI), Hiệp hội Doanh nghiệp Điện tử Việt Nam (VEIA) và Hiệp hội Doanh nghiệp Mỹ tại Việt Nam (AmCham).
“Bộ luật có phạm vi điều chỉnh lớn và ảnh hưởng sâu rộng tới môi trường kinh doanh tại Việt Nam cũng như quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam đối với thế giới”.
Các hiệp hội lý giải như vậy về sự khẩn thiết liên quan tới 5 vấn đề mà họ đã chọn để gửi tới các cơ quan chức năng, gồm Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp.
Điều này cũng đồng nghĩa, các doanh nghiệp đang rất trông chờ vào sự lắng nghe của các cơ quan nói trên.
Một là, xét tăng mức thời giờ làm thêm tối đa hằng năm từ 200 giờ lên 300 giờ (đối với các ngành nghề bình thường). Riêng với một số trường hợp đặc biệt do Chính phủ quy định, người sử dụng lao động có thể tăng số giờ làm thêm từ 400 giờ lên 500 giờ với một số điều kiện.
Hai là, không giảm thời giờ làm việc xuống 44 giờ/tuần, giữ nguyên số giờ làm việc tiêu chuẩn như hiện nay là 48 giờ/tuần.
Ba là, giữ nguyên quy định như Luật hiện hành, không hạn chế số lần gia hạn Giấy phép lao động của người lao động nước ngoài như trong Dự thảo Bộ Luật (2 lần). Đồng thời, nâng thời hạn cấp Giấy phép lao động cho người nước ngoài từ 2 năm lên 3 năm.
Bốn là, giữ nguyên định nghĩa về tiền lương như quy định tại Luật hiện hành, là “khoản tiền” mà người sử dụng lao động trả cho người lao động để thực hiện công việc theo thỏa thuận. Việc quy định cộng cả lương làm thêm giờ và các trợ cấp khác vào tiền lương để đóng bảo hiểm sẽ khiến số tiền đóng bảo hiểm đã cao, lại càng cao hơn, tạo thêm gánh nặng cho cả người lao động và cả doanh nghiệp.
Năm là, quy định doanh nghiệp bố trí cho toàn bộ công nhân viên nghỉ 1 - 2 ngày để thực hiện quyền công đoàn là không cần thiết, tạo thêm quá nhiều gánh nặng và trách nhiệm cho doanh nghiệp.
Thực ra, đây không phải lần đầu, các doanh nghiệp đề cập 5 vấn đề trên. Đơn cử đề xuất về việc tăng thời gian làm thêm giờ đã đều đặn có mặt trong rất nhiều Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF), diễn ra mỗi năm hai lần.
Lý do của đề xuất này là tổng số giờ được làm thêm tối đa trong một năm của Việt Nam (200 giờ) thấp hơn rất nhiều so với các quốc gia đang cạnh tranh lao động với Việt Nam, như các nước trong khối ASEAN.
Cụ thể, Thái Lan (1.836 giờ), Malaysia (1.248 giờ), Philippines (1.224 giờ), Indonesia (714 giờ). Trung Quốc cũng quy định số giờ làm thêm là 432 giờ, Bangladesh (408 giờ), Ấn Độ (300 giờ)…
Ngay trước khi văn bản của 7 hiệp hội cùng ký được gửi đến các địa chỉ trên vào đầu tháng 8/2019, thì VITAS, VASEP cũng có những kiến nghị tương tự.
Nhưng việc 7 hiệp hội cùng ký chung một văn bản để thống nhất kiến nghị thì có thể xem là lần đầu. Có nghĩa, các doanh nghiệp trong nhiều ngành, lĩnh vực đang có chung mối lo về những tác động không mong muốn của những đề xuất trong Dự thảo Bộ luật Lao động sửa đổi.
Mối lo này càng lớn khi số đơn hàng tăng theo sự giảm mạnh của hàng rào thuế quan, của sự gia tăng nhu cầu lao động... rất có thể khiến nhiều doanh nghiệp buộc phải đặt mình vào thế rủi ro, tìm cách phá vỡ luật, tìm cách vượt qua các giới hạn để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng...
Tất nhiên, đây không phải là lý do biện minh cho các vi phạm của một số doanh nghiệp, nhưng những kiến nghị, đề xuất đứng trên góc độ thực thi của các doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp cần phải được lắng nghe và trao đổi thấu đáo.
Có lẽ hơn ai hết, chính doanh nghiệp cũng rất muốn đáp ứng đầy đủ các quy định, tuân thủ luật pháp để không chỉ đảm bảo sự hài hòa, ổn định trong quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động, mà còn là điều kiện tối quan trọng trong cạnh tranh, hội nhập quốc tế.