Theo JPMorgan Chase, trong tháng 8, sản lượng sản xuất toàn cầu đã giảm so với tháng trước và các đơn đặt hàng mới đã giảm tháng thứ hai liên tiếp. Khi khủng hoảng kinh tế gia tăng, điều tồi tệ hơn có thể xảy ra ở phía trước đối với các nhà máy và nền kinh tế rộng lớn hơn.
Năm ngoái, ngành công nghiệp đã có một sự bùng nổ kinh hoàng. Người tiêu dùng được hỗ trợ bởi các gói cứu trợ hào phóng liên quan tới Covid-19 và họ đã đổ xô mua hàng hóa, và việc nới lỏng các biện pháp đóng cửa đã cho phép các nhà máy bù đắp lại những thiệt hại đã mất.
Giá trị của sản lượng sản xuất toàn cầu tăng vọt lên hơn 16 triệu USD, chiếm tỷ trọng cao nhất trong GDP trong gần hai thập kỷ. Ngành công nghiệp phát triển mang lại một năm khởi sắc cho nền kinh tế thế giới, với tổng sản lượng toàn cầu tăng 6,1% và là tốc độ nhanh nhất được ghi nhận bất chấp các vấn đề về chuỗi cung ứng.
Nhu cầu ổn định là điều không thể tránh khỏi khi cuộc sống trở nên bình thường và chi tiêu chuyển trở lại từ hàng hóa sang dịch vụ, nhưng ngay cả hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ cũng có vẻ đáng thất vọng về cuối năm, và những rắc rối trong sản xuất phản ánh những cú sốc lớn hơn nhiều.
Nghiêm trọng nhất là cuộc khủng hoảng giá năng lượng gây ra bởi căng thẳng Nga-Ukraine. Sản xuất công nghiệp trong khu vực đồng euro đã giảm 2,4% trong tháng 7 so với năm trước. Các công ty đã phải ngừng hoạt động của các nhà máy do chi phí năng lượng khiến việc sản xuất trở nên không kinh tế và một mùa đông lạnh giá sẽ còn gây ra nhiều đau đớn hơn.
Nền kinh tế Trung Quốc bị vây hãm cũng là một vấn đề với nền kinh tế toàn cầu. Các nhà sản xuất đang vật lộn với các chính sách Zero-Covid và sự sụp đổ của thị trường bất động sản đã chịu thêm một cú sốc trong mùa hè, trong khi hạn hán dữ dội cản trở việc vận chuyển và giáng một đòn mạnh vào thủy điện.
Dữ liệu từ Caixin cho thấy, doanh số sản xuất của Trung Quốc đã giảm trong tháng 8 so với tháng trước. Hoạt động của các nền kinh tế thường xuất khẩu nhiều hàng hóa và linh kiện sang Trung Quốc cũng gặp khó khăn. Sản xuất của Hàn Quốc thường tăng vọt trong mùa hè nhưng xuất khẩu của nước này sang Trung Quốc cũng sụt giảm.
Lực cản từ chi phí năng lượng cao và nền kinh tế Trung Quốc khập khiễng đã được củng cố bằng việc thắt chặt chính sách tiền tệ. Nhu cầu hàng hóa tăng cao trong hai năm qua đã vượt quá công suất của các nhà máy, tàu và cảng, đẩy lạm phát lên cao. Giá cao đã được chứng minh là rất dai dẳng - một phần do cú sốc của cuộc xung đột ở Ukraine - vì vậy các ngân hàng trung ương đang có những hành động quyết liệt trong việc tăng lãi suất.
Ngân hàng Thế giới (WB) đã lưu ý rằng, việc thắt chặt đồng bộ như vậy hiếm khi xảy ra trong nửa thế kỷ qua, và giống như những gì đã gây ra cuộc suy thoái toàn cầu vào năm 1982.
Hiện tại, các nhà sản xuất ở Ấn Độ và Đông Nam Á đã chống lại các thách thức trên toàn cầu. Điều đó có thể phản ánh nỗ lực đa dạng hóa chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc.
Trong 7 tháng đầu năm 2022, xuất khẩu hàng hóa của Trung Quốc sang Mỹ đã tăng 18% so với năm trước. Tuy nhiên, xuất khẩu từ Ấn Độ tăng 30%, trong khi xuất khẩu từ Việt Nam tăng 33%, Indonesia tăng 41% và Bangladesh tăng 50%.
Tuy nhiên, vận may của các quốc gia cuối cùng cũng sẽ phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới nói chung. Nếu nền kinh tế toàn cầu tiếp tục suy yếu, ngay cả những nơi tương đối “cách nhiệt” cũng khó tránh khỏi tình trạng sụt giảm.
Một cuộc suy thoái toàn cầu không phải là một kết luận có thể bỏ qua. Hoạt động sản xuất bị ảnh hưởng trong năm 2015-2016 và năm 2019, và trong cả hai trường hợp, nền kinh tế đều tránh được suy thoái. Nhưng trong những giai đoạn này, chính sách đã thay đổi đáng kể để ngăn chặn sự suy yếu tăng trưởng.
Vào giữa thập kỷ này, Cục Dự trữ Liên bang (Fed) đã tăng lãi suất chậm hơn nhiều so với dự đoán của thị trường và Trung Quốc đã mở vòi rồng kích thích. Vào năm 2019, Fed đã xoay trục để cắt giảm lãi suất ngay cả khi kế hoạch thuế của Tổng thống Donald Trump làm tăng thâm hụt ngân sách của Mỹ, những điều này đã thúc đẩy nền kinh tế thế giới.
Trong khi đó, có rất ít hy vọng ngay lập tức cho sự đảo chiều tương tự. Hiện tại, Trung Quốc đang tuân thủ các chính sách Zero-Covid nghiêm ngặt nên các biện pháp kích thích mới sẽ không làm được gì nhiều để thúc đẩy tăng trưởng.
Gần đây, các quan chức Fed đã nói với các thị trường rằng, họ nên kỳ vọng lãi suất của Mỹ sẽ tăng cao hơn và duy trì ở mức cao lâu hơn ngay cả khi điều này đẩy nền kinh tế tới suy thoái. Thật vậy, chừng nào chi tiêu tiêu dùng của người Mỹ vẫn còn mạnh mẽ, Fed có thể sẽ cảm thấy rằng công việc chống lạm phát của họ vẫn chưa hoàn thành.
Kỳ vọng mang tính chất an toàn hiện nay là các điều kiện sẽ trở nên tồi tệ hơn trước khi chúng trở nên tốt hơn. Nhưng tồi tệ hơn bao nhiêu? Ngân hàng Thế giới (WB) đã đưa ra ba kịch bản cho năm tới.
Trong kịch bản đầu tiên, đường cơ sở phù hợp với triển vọng tăng trưởng đồng thuận hiện tại là khoảng 1,5%, nhưng có lẽ không phù hợp với mức giảm lạm phát mong muốn của các ngân hàng trung ương, do đó gần như chắc chắn là quá lạc quan.
Trong kịch bản thứ hai, nền kinh tế bị suy thoái sâu khiến các ngân hàng trung ương phải làm việc nhiều hơn để kiềm chế lạm phát, nhưng vẫn không khôi phục được sự ổn định giá cả, và tăng trưởng giảm xuống 0,8%.
Kịch bản thứ ba là chính sách thắt chặt tiền tệ đồng bộ sẽ gây ra suy thoái, do đó sản lượng toàn cầu giảm khoảng 0,4%.
Một trong hai kịch bản sau có thể sẽ là cay đắng cho các quốc gia vẫn đang phục hồi từ cuộc suy thoái hậu Covid. Nợ nần trên khắp thế giới vẫn ở mức cao đáng báo động và nền kinh tế của nhiều quốc gia tụt hậu so với đường xu hướng trước đại dịch. Các nhà lãnh đạo sẽ theo dõi sự suy giảm trong sản xuất toàn cầu với sự lo lắng đáng kể.