Chiều 29/3, Bộ Công thương tổ chức họp báo thường kỳ để thông tin về tình hình sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu và một số lĩnh vực do Bộ quản lý.
Theo Báo cáo của Bộ, tiếp tục đà tăng trưởng từ cuối năm 2023, sản xuất công nghiệp quý I/2024 khởi sắc với giá trị tăng thêm toàn ngành khoảng 6,18% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 6,98%, ngành sản xuất và phân phối điện tăng 11,97%, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 4,99%.
Sản xuất công nghiệp tăng trên diện rộng khi chỉ số sản xuất công nghiệp quý I/2024 tăng ở 54/63 địa phương.
Bộ Công Thương thông tin với báo chí tình hình sản xuất công nghiệp, thương mại quý I/2024. |
Một số địa phương có chỉ số IIP đạt mức tăng khá cao ở mức hai đến ba con số do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hoặc ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao (IIP của Trà Vinh tăng 102,%; Khánh Hoà tăng 37%; Bắc Giang tăng 23,9%; Thanh Hoá tăng 20%; Hà Nam tăng 17,2%; Quảng Ninh tăng 14%...).
Hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa cũng đang dần khởi sắc. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá ước đạt 178,04 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, xuất khẩu ước đạt 93,06 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước, nhập khẩu ước đạt 84,98 tỷ USD, tăng 13,9% .
Tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp 100% vốn trong nước đạt 26,2%, tăng gần gấp đôi so với mức tăng trưởng của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài kể cả dầu thô (tăng 13,9%), cho thấy những nỗ lực của khu vực kinh tế trong nước trong việc duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa quý I/2024 ước đạt 84,98 tỷ USD, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước, với 16 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 82,1% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 4 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 52,7%), nhiều hơn 2 mặt hàng so với cùng kỳ năm trước (quý I/2023 có 14 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD).
Cán cân thương mại tháng 3/2024 tiếp tục thặng dư khoảng 2,93 tỷ USD, cao hơn so với mức thặng dư 1,45 tỷ USD của cùng kỳ năm trước, nâng tổng xuất siêu trong quý I/2024 là 8,08 tỷ USD (quý I/2023 xuất siêu 4,93 tỷ USD).
Trong đó, xuất siêu sang Hoa Kỳ trong quý I/2024 ước đạt 22,7 tỷ USD tăng 27,9% so với cùng kỳ năm trước; xuất siêu sang EU ước đạt 8,2 tỷ USD, tăng 15,8%; xuất siêu sang Nhật Bản ước đạt 50 triệu USD, giảm 27,7%. Ngược lại, nhập siêu từ Trung Quốc ước đạt 16,7 tỷ USD, tăng 44,4%; nhập siêu từ Hàn Quốc ước đạt 6,2 tỷ USD, giảm 3,5%; nhập siêu từ ASEAN ước đạt 2,2 tỷ USD, tăng 10,9%.
Đối với thị trường trong nước, quý I/2024, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá hiện hành ước đạt 1.537,6 nghìn tỷ đồng, tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước. Riêng doanh thu bán lẻ hàng hóa Quý I/2024 ước đạt 1.190,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 77,4% tổng mức và tăng 7% so với cùng kỳ năm trước (loại trừ yếu tố giá tăng 4,5%).
Một số địa phương có doanh thu bán lẻ hàng hóa Quý I/2024 tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: Quảng Ninh tăng 9,8%; Hải Phòng tăng 9,7%; Khánh Hòa và Long An cùng tăng 9,1%; Bình Dương, Đồng Nai, Cần Thơ cùng tăng 7%; Đà Nẵng tăng 5,9%; TP. Hồ Chí Minh tăng 5,8%; Hà Nội tăng 4,7%.
Đánh giá chung về tình hình sản xuất công nghiệp, thương mại quý I/2024, Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Sinh Nhật Tân cho rằng, những kết quả đạt được là rất khả quan, đóng góp tích cực vào kết quả tăng trưởng của cả nền kinh tế.
Những kết quả trên đến từ hiệu quả từ các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ, các chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ trong giải ngân vốn đầu tư công, triển khai các dự án công nghiệp trọng điểm; Kết quả thu hút, giải ngân vốn FDI giúp tăng năng lực sản xuất trong nước.
Cùng đó, đến từ sự phục hồi của thị trường thế giới, dần chuyển sang trạng thái mới, thích ứng với những biến động lớn các năm 2022, 2023; số lượng các đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã tăng và những nỗ lực trong việc đa dạng hoá thị trường xuất khẩu, đặc biệt là việc nâng cấp quan hệ với các đối tác thương mại lớn của nước ta như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản... đã củng cố niềm tin của nhà đầu tư; Năng lực của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong nước được cải thiện.
Bên cạnh những điểm sáng, những hạn chế trong phát triển ngành Công thương cũng được đề cập, đó là chỉ số tồn kho sản phẩm chế biến, chế tạo có xu hướng tăng; thị trường trong nước tăng thấp hơn cùng kỳ năm trước; hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu còn phụ thuộc một số thị trường chính; đóng góp của các doanh nghiệp trong nước vào xuất khẩu còn hạn chế (28,1%).
Thứ trưởng Nguyễn Sinh Nhật Tân nhấn mạnh, tới đây, Bộ Công thương sẽ tiếp tục chỉ đạo hệ thống Thương vụ Việt Nam tại các khu vực thị trường thường xuyên cập nhật thông tin về tình hình thị trường nước ngoài; các quy định, tiêu chuẩn, điều kiện của thị trường nước ngoài có thể tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam và khuyến nghị đối với các địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp xuất nhập khẩu...