Nhiều doanh nghiệp đề nghị chuyển quy trình cấp giấy phép môi trường từ tiền kiểm sang hậu kiểm (Ảnh: ST)
Nhiều doanh nghiệp, hiệp hội doanh nghiệp đang cảm thấy không yên tâm với Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường.
Dự thảo đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường chuyển qua Bộ Tư pháp nhằm chuẩn bị thẩm định theo quy trình ban hành văn bản quy phạm pháp luật vào tuần cuối tháng 9/2021.
“Nhiều vấn đề của Dự thảo này có thể sẽ làm khó doanh nghiệp. Chúng tôi đã góp ý rồi, nhưng chưa được phản hồi, tiếp thu”, ông Nguyễn Hoài Nam, Phó tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) chia sẻ với phóng viên Báo điện tử Đầu tư - Baodautu.vn.
Ông cũng nói thêm, các lo ngại này không chỉ đến từ các hội viên VASEP, mà từ nhiều hiệp hội đã từng tham gia góp ý cho Dự thảo trong giai đoạn trước. Mới đây nhất là tổng hợp ý kiến từ 7 hiệp hội ngành hàng và doanh nghiệp gồm: Hiệp hội Chế biến và XK Thủy sản VN (VASEP), Hiệp hội DN Châu Âu tại Việt Nam (Eurocham), Hiệp hội doanh nghiệp Mỹ tại VN (Amcham), Hiệp hội Giấy & Bột giấy Việt Nam, Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), Hiệp hội Điện tử Việt Nam, Công ty Canon Việt Nam.
Lý do là một số quy định, tiêu chí được áp từ các nền kinh tế hiện đại, trong khi chúng ta là đất nước đang phát triển, nhiều lĩnh vực kinh tế gắn liền với nông nghiệp, nông thôn và cần lộ trình để đáp ứng. Hệ quả là chi phí hoạt động của doanh nghiệp tăng, nhưng có thể không đạt được hiệu quả trong quản lý và bảo vệ môi trường.
Lo thủ tục cấp Giấy phép môi trường trùng lắp, bất hợp lý, trái với các nghị quyết của Chính phủ
Theo Dự thảo, các dự án và nhà máy nhóm I và nhóm II kể cả đã hoạt động cũng phải làm báo cáo đánh giá tác động môi trường (ĐTM) và xin cấp giấy phép môi trường. Hiện tại, chỉ có các dự án gây ô nhiễm đến môi trường (nhóm I) mới phải thực hiện các thủ tục này.
Điều này làm gia tăng thủ tục hành chính do hồ sơ cấp phép và quy trình cấp phép rất phức tạp, trùng lắp, nhưng lại không có hiệu quả. Ví dụ, Dự thảo đang chia hồ sơ xin cấp phép môi trường đến 15 mục nhỏ, trong các mục có sự trùng lắp với hồ sơ xin duyệt ĐTM.
Với quy định trong điều 27-29 của Dự thảo, phần lớn doanh nghiệp sẽ phải trải qua 2 lần thẩm định và 2 lần kiểm tra thực địa nhưng không quy định rõ thời gian kiểm tra hồ sơ, thời gian thẩm định và kiểm tra thực địa khi cấp phép.
Đặc biệt, các doanh nghiệp cho rằng, quy trình cấp phép được quy định theo hình thức tiền kiểm, lấy mẫu kiểm tra các công trình xử lý chất thải khi còn chưa vận hành thử nghiệm, nên việc đánh giá hiệu quả thực tế không cao.
Ngoài ra, thủ tục cấp giấy phép môi trường điều chỉnh hay cấp lại được cho là quy định phức tạp, gần như cấp mới.
“Để tránh trùng lắp hồ sơ, đề nghị những hồ sơ đã nộp khi xin duyệt ĐTM thì không nộp lại khi xin duyệt giấy phép. Chúng tôi cũng đề nghị chuyển tiền kiểm sang hậu kiểm, chấp nhận các cam kết của doanh nghiệp khi cấp giấy phép môi trường. Bỏ kiểm tra thực địa khi cấp giấy phép môi trường thay bằng hậu kiểm, kiểm tra đột xuất việc chấp hành các nội dung giấy phép môi trường được cấp”, ông Nam cho biết.
Các doanh nghiệp cũng đề nghị bỏ thời gian kiểm tra tính đầy đủ của hồ sơ (vì đơn giản là đếm số đầu mục) và quy định rõ thời gian thẩm định. Yêu cầu bổ sung phải rõ ràng, cụ thể, có cơ sở khoa học và pháp lý, chỉ yêu cầu bổ sung 1 lần.
Đây cũng là cách để thực hiện yêu cầu của Chính phủ trong cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính quy định Nghị quyết 68/2020/NQ-CP ban hành Chương trình cắt giảm, đơn giản hóa quy định liên quan đến hoạt động kinh doanh giai đoạn 2020-2025 và các phiên bản nghị quyết 19 về cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia.
Cách thu phí Tái chế sản phẩm, bao bì (EPR) có đủ minh bạch?
Liên quan đến quy định về phí tái chế sản phẩm, bao bì (EPR), các ý kiến doanh nghiệp đang lo ngại sự thiếu minh bạch do cách tính, thu và quản lý phí có nhiều điểm bất hợp lý.
“Khi Văn phòng EPR thu tiền để tái chế thay cho doanh nghiệp thì rõ ràng Văn phòng EPR phải chịu trách nhiệm về việc tái chế đó, nhưng Dự thảo không có bất cứ quy định nào về việc nếu không hoàn thành trách nhiệm thì Văn phòng EPR có chịu trách nhiệm trước pháp luật không (Bộ Công Thương cũng có ý kiến góp ý về vấn đề này). Vì vậy, với quy định này, các hiệp hội quan ngại rằng doanh nghiệp phải nộp thêm khoản tiền này nhưng điều gì và cơ sở nào đảm bảo rằng môi trường sẽ đảm bảo hơn, sạch hơn?
Cùng với đó, nhiều doanh nghiệp đặt câu hỏi, việc doanh nghiệp nộp tiền để EPR làm thay việc tái chế, nhưng văn phòng EPR tự quản lý quỹ, quyết định thu chi mà không có quy định giám sát quản lý thì có đủ minh bạch không.
Công thức tính phí là chưa rõ ràng, tỷ lệ tái chế bắt buộc 80-90% ngay lúc đầu của Dự thảo là quá cao, vì ngay cả châu Âu lúc đầu cũng chỉ đạt 50-60%, rất khó thực thi, cần phải có lộ trình đầu tiên thấp, sau tăng dần.
"Chúng tôi đã đề nghị lùi lộ trình nộp phí tái chế đến 1/1/2025, vì nếu Nghị định áp dụng vào ngày 01/01/2022 thì doanh nghiệp sớm phải chịu thêm chi phí trong khi vẫn đang rất khó khăn để chống dịch, thêm vào đó là giá hàng hóa tăng, ảnh hưởng đến cuộc sống của người dân cũng đang rất khó khăn", ông Nam cho biết.
Không công bằng khi đưa nhà máy thủy sản vào mức nguy cơ ô nhiễm cao
Theo kiến nghị của Vasep, Dự thảo Nghị định quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo vệ môi trường đưa ngành chế biến thủy sản vào mức 3 của “loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có nguy cơ gây ô nhiễm môi trường” là không công bằng khi so với các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm như: bánh kẹo, sữa, dệt nhuộm...
Về khí thải: Hiện chỉ có một số ít nhà máy chế biến thủy sản có công đoạn gia nhiệt (nhà máy đồ hộp, nhà máy sản xuất hàng chín, hàng chần như chả cá, tôm luộc, tôm bao bột,...) có sử dụng lò hơi, chứ không như một số nhà máy chế biến thực phẩm khác như sản xuất bánh kẹo bánh, sữa, cà phê hòa tan...
Về nước thải: Theo QCVN 11:2015 về nước thải nhà máy chế biến thủy sản đã nêu các chỉ tiêu đặc thù của nước thải chế biến thủy sản, theo đó không có các chỉ tiêu nước thải độc hại; các chỉ tiêu nước thải cũng chủ yếu có nguồn gốc từ cơ thịt thủy sản và các phụ gia thực phẩm, đều là những chất từ tự nhiên và ăn được đối với con người, không gây độc hại mạnh như những hóa chất dùng trong các ngành công nghiệp khác.
Về chất thải rắn: Các chất thải rắn chính trong quá trình chế biến chủ yếu là các phế liệu từ thủy sản như xương cá, da cá, mỡ cá, vỏ tôm, đầu tôm, vỏ ngao, sò... hoặc một số túi nylon, bao bì carton... Các phế liệu thủy sản đa phần được các cơ sở bên ngoài thu gom để làm nguyên liệu cho các ngành sản xuất khác như sản xuất thức ăn chăn nuôi, dầu biodiezel, chitin, chitosan, collagen... Vỏ ngao, sò, ốc, hến... cũng thường được một số cơ sở thu mua để làm nguyên liệu sản xuất đồ mỹ nghệ, xay ra thành bột trộn vào thức ăn chăn nuôi để tăng lượng canxi cho vật nuôi, lấp đất, lấp đường... hoặc nếu phải bỏ đi thì cũng không phân hủy tạo thành các chất thải nguy hại. Các bao bì carton, nylon cũng được các cơ sở thu gom phế liệu thu mua lại để làm nguyên liệu tái chế...