Lãi suất huy động vốn chưa ngừng tăng, trong khi lãi suất cơ bản vẫn ổn định và NH rất khó để tăng lãi suất đầu ra. Tại sao có hiện tượng này, thưa ông?
Có nghĩa là rất rủi ro đối với hoạt động của ngành và cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt?
Một khi chênh lệch lãi suất huy động và cho vay thu hẹp dần thì rủi ro trong hoạt động tín dụng sẽ gia tăng. Thứ nhất, với những NH đã tăng cao lãi suất đầu vào sẽ rất khó cho vay ra với lãi suất thấp nên buộc phải đi vào các phân khúc thị trường khác có rủi ro cao hơn (tức khách hàng kém hơn), nhưng có thể giải quyết được bài toán tăng trưởng dư nợ để bù đắp chi phí. Thứ hai, NH phải đẩy dư nợ tăng lên để bù đắp chi phí, một khi dư nợ tăng thì NH phải chấp nhận rủi ro ở mức cao.
Mặt khác, dư nợ tăng cao, nhưng chênh lệch lãi suất thu hẹp sẽ dẫn đến khả năng tích lũy của NH thấp và NH sẽ gặp khó khăn trong việc đáp ứng yêu cầu trích lập dự phòng nếu rủi ro tín dụng xảy ra.
Theo ông, việc quản lý rủi ro của hệ thống NH trong nước hiện thay đổi như thế nào sau khi trải qua giai đoạn khó khăn của năm trước?
Nền tảng quản trị rủi ro của các NH trong năm 2009 đã tốt hơn rất nhiều so với trước đây. Song, có những rủi ro mới phát sinh, với tính chất mới và kiểu cách khác hơn. Tuy nhiên, khả năng quản trị rủi ro của NH trong nước đã thay đổi theo hướng tích cực. Xét về diễn biến thị trường thì trong 6 tháng đầu năm nay, Việt
Tín dụng tăng trưởng mạnh trong 6 tháng đầu năm đã tạo ra mối lo ngại về nguy cơ lạm phát và Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có động thái kiểm soát chặt hoạt động cho vay của các NH. Theo ông, liệu nguy cơ trên có xảy ra?
Chính phủ đã có cảnh báo sớm ngay từ lúc này thì nguy cơ lạm phát nhiều khả năng sẽ được kiểm soát. Chỉ có một vấn đề ảnh hưởng rõ rệt là với Việt