Các chuyên gia UNDP và cơ quan quản lý đã có nhiều cuộc họp để đưa ra các khuyến nghị chính sách phát triển vật liệu xây không nung.

Các chuyên gia UNDP và cơ quan quản lý đã có nhiều cuộc họp để đưa ra các khuyến nghị chính sách phát triển vật liệu xây không nung.

Phát triển vật liệu xây không nung, những khuyến nghị chính sách

(ĐTCK) Phát triển vật liệu xây không nung ( VLXKN ) đồng thời giảm dần gạch đất sét nung, xoá bỏ lò thủ công, thủ công cải tiến, lò vòng, lò vòng cải tiến sử dụng nhiên liệu hoá thạch (than, dầu, khí) và lò đứng liên tục sản xuất gạch đất sét nung (GĐSN) là phù hợp với định hướng phát triển bền vững, kết hợp hài hòa các yếu tố kinh tế - xã hội , môi trường và là chủ trương nhất quán của Chính phủ và Bộ Xây dựng.

Đòi hỏi tất yếu

Ở thời điểm năm 2010, nước ta sản xuất hơn 20 tỷ viên gạch đất sét nung và có rất nhiều lò gạch thủ công hoạt động.

Tuy nhiên, sản xuất GĐSN đã làm tiêu tốn hàng nghìn héc-ta đất nông nghiệp, hàng triệu tấn than mỗi năm.

Theo tính toán trong các nghiên cứu, để sản xuất 1 tỷ viên GĐSN có kích thước tiêu chuẩn sẽ tiêu tốn khoảng 1,5 triệu m3 đất sét, tương đương 75 ha đất nông nghiệp (độ sâu khai thác là 2m) và 150.000 tấn than, đồng thời thải ra khoảng 600.000 tấn khí CO2 và các khí thải độc hại khác gây ô nhiễm môi trường.

Bên cạnh đó, việc sử dụng GĐSN còn làm khó công nghiệp hóa ngành xây dựng. Vì vậy, thay thế GĐSN bằng vật liệu xây không nung (VLXKN) sẽ đem lại nhiều hiệu quả tích cực về các mặt kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường.

Đứng trước tình trạng nguồn tài nguyên đất bị ảnh hưởng nghiêm trọng, cũng như nguy cơ gây ô nhiễm môi trường do đốt than ở các lò gạch thủ công phát thải trực tiếp ra môi trường, Chính phủ và Bộ Xây dựng đã ban hành nhiều văn bản chỉ đạo và các chương trình về hạn chế sản xuất GĐSN và thúc đẩy phát triển VLXKN, bao gồm: Quyết định 567/QĐ-TTg ngày 28/4/2010 về việc phê duyệt Chương trình phát triển vật liệu xây không nung đến năm 2020;

Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 16/4/2012 về việc tăng cường sử dụng VLXKN và hạn chế sản xuất, sử dụng GĐSN, Quyết định 1469/QĐ-TTg về phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển VLXD Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030;

Nghị định số 24a/2016/NĐ-CP ngày 05/4/2016 về quản lý vật liệu xây dựng (VLXD); Thông tư 09/2012/TT-BXD về việc quy định sử dụng vật liệu xây không nung trong công trình xây dựng (hiện nay đã được cập nhật, thay thế bằng Thông tư 13/2017/TT-BXD ngày 08/12/2017);

Quyết định 890/QĐ-BXD ngày 29/07/2015 về việc phê duyệt chương trình khoa học công nghệ trọng điểm cấp Bộ giai đoạn 2015-2020 “Nghiên cứu phát triển vật liệu xây và cấu kiện không nung cho công trình xây dựng đến năm 2020”…, trong đó đều nêu rõ nội dung cơ chế, chính sách, nghiên cứu phát triển VLXKN.

Gần đây nhất, tại văn bản số 14/TB-VPCP ngày 9/1/2018 của Văn phòng Chính phủ, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng đã chỉ đạo Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: “dừng đầu tư mới đầu tư mở rộng các cơ sở sản xuất gạch đất sét nung”.

Bộ Xây dựng đồng thời đã thường xuyên rà soát xây dựng hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn liên quan đến VLXKN; ban hành Quyết định số 1264/QĐ-BXD ngày 18/12/2017 về công bố Định mức dự toán xây dựng công trình - Phần xây dựng (sửa đổi, bổ sung) - Công tác sử dụng vật liệu xây không nung.

Sản xuất VLXKN đồng thời còn kết hợp tiêu thụ được chất thải từ các ngành nhiệt điện, luyện kim, khai khoáng,... góp phần tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và các chi phí xử lý chất thải.

Sự chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ và Bộ Xây dựng đối với việc phát triển VLXKN, đồng thời giảm dần sử dụng GĐSN đã đạt được nhiều kết quả tích cực: số lượng cơ sở sản xuất gạch không nung đã tăng lên hơn 2.300 với tổng CSTK (năm 2018) đạt khoảng 12,6 tỷ viên QTC/năm chiếm khoảng 35% tổng CSTK vật liệu xây.

Năm 2018, sản lượng VLXKN toàn quốc đạt gần 5 tỷ viên QTC, chiếm khoảng 25% tổng sản lượng vật liệu xây (trong khi năm 2010 chỉ chiếm khoảng 8%).

Hiện đã có 35/63 tỉnh có chỉ thị của UBND về việc xóa bỏ sản xuất gạch nung thủ công và tăng cường sử dụng VLXKN; 45/63 tỉnh có xây dựng kế hoạch, lộ trình giảm sản xuất gạch nung.

Trong giai đoạn 10 năm vừa qua, lĩnh vực sản xuất VLXKN đã có sự tăng trưởng nhanh về quy mô công suất, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước là chủ yếu.

Chất lượng sản phẩm không ngừng được nâng cao, đa dạng hóa về chủng loại, đáp ứng nhu cầu của thị trường.

Nhiều đơn vị sản xuất đã từng bước làm chủ công nghệ sản sản xuất và sử dụng nguyên, nhiên liệu thay thế. VLXKN ngày càng trở nên quen thuộc và được sử dụng phổ biến hơn.

Công nghệ sử dụng tấm tường bê tông rỗng, bê tông nhẹ kích thước lớn bắt đầu thay thế gạch xây tại các công trình cao tầng, giúp đẩy mạnh cơ giới hóa, tăng năng suất, chất lượng, rút ngắn tiến độ thi công và hạ giá thành công trình.

Tuy nhiên, thực tế sử dụng VLXKN tại các công trình trong những năm vừa qua và hiện nay cho thấy có một số vấn đề mà người sử dụng chưa thực sự hài lòng với chất lượng công trình sử dụng VLXKN, đó là tình trạng nứt, thấm làm giảm mỹ quan, bất tiện khi sinh hoạt, làm việc.

Điều này đã dẫn đến hệ quả là sản lượng VLXKN không tăng nhanh như dự kiến (tỷ lệ sản lượng VLXKN so với tổng sản lượng vật liệu xây năm 2015 chỉ chiếm 14%, năm 2018 chiếm 25%).

Trong khi các nước phát triển có thể sử dụng 100% VLXKN, Thái Lan, Malaysia cũng sử dụng khoảng 60 - 70% VLXKN.

Phần lớn các nhà sản xuất gạch bê tông vẫn sản xuất gạch xây đặc kích thước nhỏ tương tự GĐSN nên không phát huy được thế mạnh của loại gạch này là có thể chế tạo kích thước lớn, tỷ lệ rỗng cao, nâng cao tốc độ thi công, giảm chi phí nhân công.

Bên cạnh đó, sản xuất gạch bê tông còn manh mún phân tán ở nhiều nơi với các cơ sở sản xuất nhỏ nên các cơ quan quản lý khó kiểm soát chất lượng, kiểm soát việc bảo vệ môi trường.

Đặc biệt là các sản phẩm gạch block nhẹ AAC bê tông khí chưng áp, bê tông bọt gặp khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Gạch AAC có 22 doanh nghiệp đầu tư dự án, trong đó thực tế hiện nay chỉ có 5 nhà máy hoạt động, tiêu thụ khó khăn.

Gạch bê tông bọt 17 dây chuyền nhưng hoạt động cầm chừng. Nhiều nhà máy phải ngừng sản xuất do không tiêu thụ được sản phẩm vì chất lượng sản phẩm chưa đạt yêu cầu.

Đồng thời, nguyên nhân khác là do thiếu hướng dẫn sử dụng sản phẩm, đặc biệt là thợ xây không nắm được kỹ thuật xây đã dẫn tới tường xây thường bị nứt, thấm làm giảm lòng tin của người sử dụng khi lựa chọn loại sản phẩm này.

Một số địa phương chưa thực sự quan tâm đến Chương trình phát triển vật liệu xây không nung, nên chưa có kế hoạch, lộ trình nhằm tăng cường sử dụng vật liệu xây không nung, hạn chế sử dụng gạch đất sét nung.

Cá biệt, một số địa phương có văn bản chỉ đạo cho thay đổi VLXKN bằng gạch nung khi chưa rõ nguyên nhân gây nứt tường xây.

Với sự hỗ trợ của Dự án phát triển vật liệu xây không nung, nhiều doanh nghiệp đã tiếp cận với dây chuyển sản xuất hiện đại.

Với sự hỗ trợ của Dự án phát triển vật liệu xây không nung, nhiều doanh nghiệp đã tiếp cận với dây chuyển sản xuất hiện đại.

Thực trạng về sử dụng VLXKN như vậy đòi hỏi, bên cạnh các chính sách phát triển VLXKN của nhà nước, các nhà sản xuất, đơn vị tư vấn thiết kế, thẩm tra, nhà thầu xây dựng, cùng với các chuyên gia cần phải nghiên cứu, thường xuyên rà soát kỹ hơn nữa các quy trình sản xuất từ khâu lựa chọn nguyên liệu, thành phần cấp phối, trộn, tạo hình, bảo dưỡng và có giải pháp kiểm soát chất lượng sản phẩm; tính toán thiết kế, tải trọng, biến dạng, chịu lực, …; đến các quy trình thi công, bảo dưỡng kết cấu.

Kinh nghiệm các nước sử dụng nhiều VLXKN đi trước nước ta đều cho thấy bên cạnh việc bảo đảm công nghệ sản xuất, chất lượng sản phẩm, thì nhân lực đồng bộ từ sản xuất sản phẩm, kiểm soát chất lượng, tư vấn thiết kế, thi công VLXKN phải được các đơn vị sản xuất, doanh nghiệp đào tạo cẩn thận, am hiểu sản phẩm mới, sự khác biệt giữa VLXKN và gạch xây truyền thống thì mới thúc đẩy, nâng cao tỷ lệ sử dụng VLXKN trong công trình xây dựng thực tế.

Khuyến nghị về phát triển VLXKN

Phát triển VLXKN ở nước ta đã đi qua một giai đoạn 10 năm khởi đầu có nhiều thuận lợi từ chính sách của Nhà nước, nhưng cũng đã gặp phải không ít khó khăn thách thức từ vấn đề công nghệ sản xuất, thị trường, thị hiếu người sử dụng, chất lượng sản phẩm khi đưa vào công trình.

Để tiếp tục phát triển VLXKN trong thời gian tới, nhìn từ kinh nghiệm phát triển tại một số nước trên thế giới, một số khuyến nghị đối với khung chính sách có thể nên tập trung vào các nội dung sau.

- Cần tiếp tục thực thi triệt để chủ trương giảm dần GĐSN, xoá bỏ lò thủ công, thủ công cải tiến, lò vòng, lò vòng cải tiến sử dụng nhiên liệu hoá thạch (than, dầu, khí) và lò đứng liên tục sản xuất GĐSN. Điều chỉnh cơ chế chính sách về thuế đối với gạch đất nung theo hướng tăng các loại thuế tài nguyên, môi trường.

- Đa dạng hóa các sản phẩm gạch không nung kích thước lớn, cấu kiện, tấm tường, vật liệu nhẹ,… nhằm giảm thời gian thi công, hạ giá thành xây dựng.

* Phát triển đầu tư sản xuất và sử dụng VLXKN thay thế GĐSN đạt tỷ lệ 35-40% vào năm 2025; 40-45% vào năm 2030.

- Sử dụng công nghệ tiên tiến, dây chuyền thiết bị tiên tiến, hiện đại cơ giới hóa, tự động hóa. Phấn đấu hơn 50% nhà máy ứng dụng robot vào trong dây chuyền sản xuất.

- Sử dụng tối đa các loại chất thải của các ngành công nghiệp (tro, xỉ than; xỉ luyện kim...) làm nguyên liệu để sản xuất VLXKN, tiết kiệm tài nguyên khoáng sản.

- Các cơ sở sản xuất phải có hệ thống xử lý chất thải đáp ứng các quy chuẩn, tiêu chuẩn về môi trường; phải có thiết bị giám sát khí thải, nồng độ bụi tại nguồn thải và kết nối trực tuyến các thiết bị này với cơ quan quản lý môi trường của địa phương.

- Tăng cường công tác quản lý, thanh, kiểm tra về việc thực hiện sản xuất, sử dụng VLXKN theo đúng quy định. Tăng cường chính sách quản lý chất lượng sản phẩm, điều chỉnh tăng mức phạt đối với việc sử dụng VLXKN không đáp ứng yêu cầu chất lượng và không đúng trong công trình.

- Bổ sung các cơ chế, chính sách ưu đãi về thuế đối với các hoạt động phát triển VLXKN như: thuế nhập khẩu thiết bị, phụ tùng; thuế thu nhập doanh nghiệp; thuế giá trị gia tăng và các ưu đãi và hỗ trợ khác. Xây dựng quỹ từ Ngân hàng chính sách để có cơ chế ưu đãi vốn vay cho các doanh nghiệp đầu tư sản xuất VLXKN, vật liệu phụ, phụ kiện tại các địa phương, đảm bảo cung cấp tại chỗ tạo thuận lợi cho người sử dụng.

- Tiếp tục biên soạn và ban hành các tiêu chuẩn và chỉ dẫn kỹ thuật theo các loại VLXKN khác nhau. Cần sớm ban hành tiêu chuẩn thiết kế kết cấu tường xây bằng VLXKN.

- Tập huấn có cấp chứng chỉ về sử dụng VLXKN cho các cơ quan, tổ chức tư vấn thiết kế kiến trúc, thiết kế kết cấu, thiết kế thi công, thẩm tra, thẩm định, thanh tra xây dựng. Tập huấn cho đơn vị thi công về các tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) và hướng dẫn kỹ thuật đã quy định về sử dụng VLXKN. Tập huấn cho tư vấn giám sát về sử dụng VLXKN và thực hiện giám sát chuyên môn về khối xây bằng loại vật liệu này.

- Các chủ đầu tư, ban quản lý dự án và cơ quan kiểm định cần phải kiểm tra đầy đủ quy trình thi công VLXKN, vật liệu phụ, phụ kiện trước khi chấp nhận đưa vào sử dụng.

- Ban hành giáo trình về thi công VLXKN, tập huấn cho thợ xây tường để nắm được quy trình và làm đúng với các chỉ dẫn kỹ thuật thi công cho mỗi loại VLXKN. Các giáo trình này cần được đưa vào chương trình giảng dạy trong các cơ sở đào tạo liên quan.

- Khuyến khích các viện nghiên cứu, trường đại học, doanh nghiệp sản xuất vật liệu cùng kết hợp đầu tư nghiên cứu khoa học và áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất nhằm đa dạng hóa chủng loại sản phẩm; nâng cao tính năng, chất lượng sản phẩm; áp dụng cơ giới hóa, tự động hóa để tăng năng suất lao động; tăng cường sử dụng phế thải làm nguyên, nhiên liệu; giảm tiêu hao nguyên vật liệu; nâng cao công tác bảo vệ môi trường, an toàn và vệ sinh lao động; sản xuất thiết bị, phụ tùng thay thế mà trong nước chưa sản xuất được.

- Phát huy vai trò quản lý nhà nước về khoa học - công nghệ; hỗ trợ cung cấp thông tin công nghệ cho doanh nghiệp trước khi quyết định đầu tư; làm cầu nối giữa doanh nghiệp với các trường đại học, viện, trung tâm nghiên cứu trên địa bàn cả nước để triển khai ứng dụng khoa học kỹ thuật và đáp ứng nhu cầu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp.

- Tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức, nội dung liên quan đến sản xuất và sử dụng vật liệu không nung đến các chủ đầu tư, nhà thầu, đơn vị tư vấn thiết kế, giám sát và người dân.

Tin bài liên quan