Khái niệm
Phân tích tài chính là một tập hợp khái niệm, phương pháp và công cụ cho phép tập hợp và xử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác nhằm trợ giúp cho việc ra quyết định tài chính. Trọng tâm của phân tích tài chính doanh nghiệp là phân tích các báo cáo tài chính và chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua hệ thống phương pháp, công cụ và kỹ thuật giúp cho nhà phân tích từ các góc độ khác nhau, vừa đánh giá toàn diện, tổng hợp khái quát, vừa xem xét chi tiết hoạt động tài chính doanh nghiệp để nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra các quyết định tài chính, quyết định tài trợ và quyết định đầu tư.
Mỗi đối tượng khác nhau sẽ quan tâm tới các nội dung tài chính khác nhau của doanh nghiệp. Tuy nhiên, về cơ bản, quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp gồm các bước: thu thập thông tin; xử lý thông tin; dự báo và đưa ra quyết định tài chính. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính bao gồm thông tin kế toán và các thông tin khác, trong đó, thông tin kế toán có vai trò quan trọng nhất.
Các loại báo cáo tài chính chủ yếu
Các báo cáo tài chính là tài liệu cung cấp thông tin về tình hình hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, được lập dựa vào phương pháp kế toán tổng hợp từ các sổ sách kế toán, theo các chỉ tiêu tài chính phát sinh tại những thời điểm hoặc thời kỳ nhất định. Các báo cáo tài chính phản ánh có hệ thống tình hình tài sản của các đơn vị tại các thời điểm, kết quả hoạt động kinh doanh và tình hình sử dụng tài sản của doanh nghiệp trong những thời kỳ nhất định, động thời giải trình giúp cho các đối tượng sử dụng thông tin tài chính nhận biết được thực trạng tài chính, tình hình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp để ra các quyết định phù hợp. Các báo cáo tài chính chủ yếu bao gồm: bảng cân đối kế toán; báo cáo kết quả kinh doanh; báo cáo lưu chuyển tiền tệ và bản thuyết minh các báo cáo tài chính.
- Bảng cân đối kế toán: là báo cáo tổng hợp, cho biết tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Bảng cân đối kế toán được chia làm 2 phần: phần nguồn vốn, phản ánh cơ cấu tài trợ của doanh nghiệp bao gồm nợ và vốn chủ sở hữu. Phần tài sản phản ánh quy mô và kết cấu các loại tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của doanh nghiệp, bao gồm tài sản ngắn hạn và dài hạn. Về nguyên tắc cân đối, nguồn vốn phải bằng tài sản.
- Báo cáo kết quả kinh doanh: là báo cáo tổng hợp, cho biết kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định, bao gồm hoạt động sản xuất - kinh doanh, hoạt động tài chính và hoạt động khác. Ngoài ra, báo cáo kết quả kinh doanh còn phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước của doanh nghiệp trong thời kỳ đó.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ: phản ánh lưu chuyển tiền tệ hay các luồng tiền vào, luồng tiền ra, tình hình tài trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ nhất định. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ thường gồm các phần lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh doanh; lưu chuyển tiền tự hoạt động đầu tư và lưu chuyển tiền từ hoạt động tài chính.
Phân tích các tỷ lệ tài chính
Trong phân tích tài chính, các nhà phân tích sử dụng phương pháp phân tích so sánh, phương pháp phân tích tỷ lệ và phân tích tài chính Dupont. Phương pháp phân tích tài chính hay được các nhà phân tích sử dụng hơn vì các tỷ lệ tài chính cung cấp những ý nghĩa đầy đủ về mối quan hệ giữa giá trị riêng rẽ trên các báo cáo tài chính. Các tỷ lệ tài chính được phân tích trong mối quan hệ với toàn bộ nền kinh tế, với đặc thù của mỗi ngành và luôn sử dụng số liệu quá khứ để phân tích. Các tỷ lệ tài chính được chia thành 5 nhóm chính: nhóm tỷ lệ về cơ cấu; nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán; nhóm tỷ lệ về khả năng hoạt động (hiệu quả hoạt động, khả năng sinh lời); nhóm tỷ lệ về phân tích rủi ro (rủi ro kinh doanh, rủi ro tài chính, rủi ro thanh khoản); nhóm tỷ lệ phân tích khả năng tăng trưởng.
1. Nhóm tỷ lệ phân tích cơ cấu - báo cáo phân tích cơ cấu
Báo cáo phân tích cơ cấu là một bảng bao gồm tỷ trọng của từng khoản mục của báo cáo tài chính, trong đó tất cả khoản mục của bảng cân đối kế toán được so sánh với tổng giá trị tài sản và tất cả các khoản mục của báo cáo kết quả kinh doanh được do sánh với doanh thu. Các tỷ lệ trong báo cáo phân tích rất hữu ích trong việc so sánh nhanh quy mô giữa hai DN khác nhau và kiểm tra xu hướng trong nội bộ một công ty.
2. Nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán
Nhóm tỷ lệ này đo lường khả năng thanh toán các khoản nợ trong ngắn hạn của DN, gồm:
- Hệ số thanh toán ngắn hạn: được xác định dựa vào thông tin từ bảng cân đối tài sản bằng cách lấy giá trị của tài sản ngắn hạn chia cho giá trị nợ ngắn hạn phải trả, phản ánh khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của DN bằng cách sử dụng các tài sản ngắn hạn.
Hệ số thanh toán ngắn hạn càng lớn chứng tỏ khả năng thanh toán của DN càng tốt, song khả năng sinh lời của tài sản lại kém do DN phải đánh đổi giữa khả năng thanh toán với khả năng sinh lời nhằm tránh rủi ro phá sản DN. Tất nhiên, cần phải so sánh với tỷ lệ trung bình ngành cũng như toàn bộ thị trường để có kết luận chính xác.
- Hệ số thanh toán nhanh: khi xác định hệ số thanh toán ngắn hạn, ngoài tiền mặt, chứng khoán thanh khoản và các khoản phải thu, chúng ta đã tính cả hàng tồn kho trong giá trị tài sản ngắn hạn đảm bảo cho nợ ngắn hạn. Tuy nhiên, trên thực tế hàng tồn kho kém thanh khoản hơn vì mất thời gian và chi phí tiêu thụ mới có thể chuyển thành tiền. Do vậy, hệ số thanh toán nhanh được sử dụng để phản ánh khả năng thanh toán của DN, mà không cần phải chịu tổn thất khi phải bán các khoản tồn khi loại tài sản kém lỏng nhất trong tài sản ngắn hạn của DN.
- Hệ số thanh toán tức thời: tỷ lệ đo lường khả năng thanh toán của DN một cách hữu hiệu nhất phải nói đến là hệ số thanh toán tức thời, nó cho biết khả năng thanh toán các khoản nợ bằng tiền và chứng khoán dễ bán của DN.
Vòng quay các khoản phải thu
Để kiểm tra tính thanh khoản của tài sản, các nhà phân tích sẽ đo lường tính lỏng của khoản phải thu. Nếu DN thu hồi được khoản nợ của mình càng nhanh thì càng có khả năng thanh toán khoản nợ trong ngắn hạn. Nói cách khác, vòng quay các khoản phải thu phản ánh tốc độ biến đổi các khoản phải thu thành tiền mặt. Chỉ số này là thước đo quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động của DN.
Nói chung, hệ số vòng quay các khoản phải thu càng lớn chứng tỏ tốc độ thu hồi nợ của DN càng nhanh, khả năng chuyển đổi các khoản nợ phải thu sang tiền mặt cao, điều này giúp DN nâng cao luồng tiền mặt, tạo ra sự chủ động trong việc tài trợ nguồn vốn lưu động trong sản xuất. Ngược lại, nếu hệ số này càng thấp thì số tiền của DN bị chiếm dụng ngày càng nhiều, lượng tiền mặt sẽ ngày càng giảm, làm giảm sự chủ động của DN trong việc tài trợ nguồn vốn lưu động trong sản xuất và có thể DN sẽ phải đi vay ngân hàng để tài trợ thêm cho nguồn vốn lưu động này.
Từ chỉ số vòng quay các khoản phải thu ta tính được hệ số ngày thu tiền bình quân bằng cách lấy số ngày trong kỳ chia cho vòng quay các khoản phải thu. Ngược lại, với chỉ số vòng quay các khoản phải thu, chỉ số ngày thu tiền bình quân càng nhỏ thì tốc độ thu hồi công nợ phải thu của DN càng nhanh.
Vòng quay các khoản phải trả
Phản ánh khả năng chiếm dụng vốn của DN đối với nhà cung cấp. Chỉ số vòng quay các khoản phải trả quá thấp có thể ảnh hưởng không tốt đến xếp hạng tín dụng của DN.
Vòng quay các khoản phải trả kỳ này nhỏ hơn kỳ trước chứng tỏ DN chiếm dụng vốn và thanh toán chậm hơn. Ngược lại, nếu vòng quay các khoản phải trả kỳ này lớn hơn kỳ trước chứng tỏ DN chiếm dụng vốn và thanh toán nhanh hơn kỳ trước. Nếu vòng quay các khoản phải trả quá nhỏ (các khoản phải trả lớn), sẽ tiềm ẩn rủi ro về khả năng thanh khoản. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý việc chiếm dụng khoản vốn này có thể giúp DN giảm chi phí về vốn, đồng thời thể hiện uy tín về quan hệ thanh toán đối với nhà cung cấp và chất lượng sản phẩm với khách hàng.
Vòng quay hàng tồn kho
Một điều chú ý là việc xác định số vòng quay hàng tồn kho cũng có thể dựa vào doanh thu bán hàng. Tuy nhiên, giá vốn hàng bán phản ánh chính xác hơn, vì trong giá vốn hàng bán không bao gồm cả phần lợi nhuận DN thu về trong lượng hàng hóa bán ra.
Vòng quay hàng tồn kho càng cao càng cho thấy DN bán hàng nhanh và hàng tồn kho không bị ứ đọng nhiều. Có nghĩa, DN sẽ ít rủi ro hơn nếu nhìn thấy trong báo cáo tài chính, khoản mục hàng tồn kho giảm qua các năm. Tuy nhiên, chỉ số này quá cao cũng không tốt, vì như thế có nghĩa là lượng hàng dự trữ trong kho không nhiều, nếu nhu cầu thị trường tăng đột ngột thì khả năng DN bị mất khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh giành thị phần. Thêm nữa, dự trữ nguyên liệu vật liệu đầu vào cho các khâu sản xuất không đủ có thể khiến cho dây chuyền bị ngưng trệ. Vì vậy, vòng quay hàng tồn kho cần đủ lớn để đảm bảo mức độ sản xuất đáp ứng được nhu cầu khách hàng.
Vòng quay tiền
Một cách thức rất hữu ích trong việc đánh giá khả năng thanh khoản là vòng quay tiền, tức là kết hợp các số liệu tính toán được từ kỳ thu tiền bình quân, kỳ dự trữ tiền bình quân và kỳ trả tiền bình
Nhóm tỷ lệ về năng lực hoạt động
Đây là nhóm tỷ lệ cho biết hoạt động của DN hiệu quả như thế nào. Chúng được phân thành 2 nhóm chính: nhóm tỷ lệ hiệu quả hoạt động và nhóm tỷ lệ khả năng sinh lời.
1. Nhóm tỷ lệ hiệu quả hoạt động
- Hiệu suất sử dụng tổng tài sản:
Phản ánh hiệu quả sử dụng tổng tài sản nói chung. Tỷ lệ này cho biết bình quân mỗi đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản = Doanh thu/Tổng tài sản ròng bình quân.
Với mỗi ngành nghề khác nhau, tỷ lệ này rất khác nhau.
- Hiệu suất sử dụng tài sản cố định (TSCĐ) ròng:
Hiệu suất sử dụng TSCĐ ròng = Doanh thu/Tổng tài sản cố định ròng bình quân.
Nếu so sánh với DN trong ngành hay toàn bộ nền kinh tế nói chung, tỷ lệ này của DN thấp hơn nhiều thì điều đó có nghĩa là vốn của DN bị ứ đọng quá nhiều trong TSCĐ. Ngược lại, nếu tỷ lệ này quá cao so với trung bình ngành thì điều đơn giản là DN đang sử dụng TSCĐ đã khấu hao hoàn toàn, hoặc đã lạc hậu, cũ kỹ.
- Hiệu suất sử dụng vốn chủ sở hữu:
Hiệu suất sử dụng vốn chủ sở hữu = Doanh thu thuần/Vốn chủ sở hữu bình quân.
Vốn chủ sở hữu ở đây bao gồm cả vốn góp của cổ phiếu ưu đãi và cổ phiếu thường, thặng dư vốn và tổng lợi nhuận để lại. Hiệu suất sử dụng vốn chủ sở hữu bị tác động bởi cơ cấu vốn của DN.
2. Nhóm tỷ lệ khả năng sinh lời
- Tỷ suất lợi nhuận biên:
Lợi nhuận biên được đo bằng doanh thu thuần từ bán hàng và cung cấp dịch vụ trừ đi giá vốn hàng bán. Từ đó, tính tỷ suất lợi nhuận biên như sau:
Tỷ suất lợi nhuận biên = Tổng lợi nhuận/Doanh thu bán hàng.
Cơ cấu sản phẩm và phương thức tiêu thụ có ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận biên. Một sự thay đổi nhỏ trong cơ cấu sản phẩm tiêu thụ hoặc phương thức bán hàng cũng làm thay đổi tỷ suất lợi nhuận biên. Tỷ lệ này với mỗi ngành khác nhau, với mỗi ngành ở các giai đoạn tăng trưởng khác nhau cũng khác nhau.
- Tỷ suất hoạt động biên:
Để tính tỷ suất lợi nhuận hoạt động biên, có thể xác định lợi nhuận bằng cách lấy tổng doanh thu trừ đi chi phí bán hàng, chi phí sản xuất chung và chi phí quản lý.
Tỷ suất lợi nhuận hoạt động biên = Lợi nhuận hoạt động/Doanh thu bán hàng thuần.
Sự biến động của tỷ suất lợi nhuận hoạt động biên qua thời gian là một trong những nguyên nhân cơ bản gây nên rủi ro kinh doanh của một DN.
- Lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA):
ROA là tỷ lệ chỉ ra mối quan hệ giữa lợi nhuận thu về của DN với tất cả lượng tài sản tham gia vào sản xuất - kinh doanh hay tổng vốn của DN (nợ, vốn cổ phần ưu đãi và cổ phần thường). Bởi vậy, lợi nhuận ở đây được hiểu là thu nhập ròng từ hoạt động, tức thu nhập sau thuế (trước khi trả cổ tức) cộng với tổng chi phí trả lãi cho khoản nợ.
ROA = (Thu nhập sau thuế + Tổng chi phí trả lãi)/Giá trị tổng vốn bình quân.
- Suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE)
ROE = Lợi nhuận ròng/Vốn cổ phần.
ROE là thước đo chính xác nhất để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy được tạo ra bao nhiêu đồng lời. ROE càng cao càng chứng tỏ DN sử dụng hiệu quả đồng vốn của cổ đông, nghĩa là DN đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông với vốn đi vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở rộng quy mô.
Phương pháp phân tích tài chính Dupont
Còn gọi là phân tích tách đoạn, được thực hiện bằng cách tách ROE thành các nhân tố khác nhau, nhằm phân tích ảnh hưởng của các nhân tố đó tới thu nhập của chủ sở hữu.
ROE = NI/E = NI/S x S/A x A/E
Trong đó: NI là lợi nhuận ròng; S là doanh thu; A là tổng tài sản và E là vốn chủ sở hữu. Với cách thay thế như vậy, ta sẽ có tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu chịu ảnh hưởng của 3 nhóm nhân tố: tỷ suất lợi nhuận biên (NI/S); hiệu suất sử dụng tổng tài sản (S/A) và đòn bẩy tài chính (A/E).
Một DN có thể tăng ROE bằng cách nâng cao hiệu suất sử dụng tổng tài sản (ROA) hoặc tăng tỷ lệ đòn bẩy tài chính (sử dụng nhiều nợ hơn để tài trợ cho tổng tài sản).
Phương pháp phân tích tài chính Dupont mở rộng
Với phương pháp phân tích tài chính Dupont mở rộng, các nhà phân tích đã đưa ra một số nhân tố bên trong ảnh hưởng đến ROE, gồm 5 nhân tố:
- Tỷ suất lợi nhuận ròng biên (EBIT/doanh thu bán hàng);
- Hiệu suất sử dụng tổng tài sản (Doanh thu bán hàng/tổng tài sản);
- Tỷ lệ chi phí trả lãi (Chi phí trả lãi/tổng tài sản);
- Đòn bẩy tài chính (Tổng tài sản/vốn chủ sở hữu);
- Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế so với lợi nhuận trước thuế (1-Thuế TNDN/EBT) = NI/EBT.
Những phân tích này sẽ giúp NĐT biết được những thay đổi về giá trị ROE của DN cũng như các nguyên nhân gây ra chúng.
Nhóm tỷ lệ về phân tích rủi ro
Phân tích rủi ro sẽ kiểm chứng sự không chắc chắn về các dòng thu nhập của toàn bộ DN và các nguồn vốn riêng lẻ như nợ, cổ phiếu ưu đãi, cổ phiếu thường. Cụ thể hơn là chúng ta sẽ xem xét những nhân tố chính gây ra sự sai lệch về các luồng thu nhập của DN. Các luồng thu nhập của DN càng không ổn định thì NĐT sẽ phải đối mặt với càng nhiều rủi ro. Hai loại rủi ro nội tại của mỗi DN là rủi ro kinh doanh và rủi ro tài chính.
- Rủi ro kinh doanh là sự không chắc chắn về thu nhập của DN do bản chất của hoạt động kinh doanh. Sự không ổn định hay không chắc chắn này bắt nguồn từ những khó khăn trong các khâu khác nhau của quá trình sản xuất - kinh doanh: chi mua nguyên vật liệu đầu vào, tiêu thụ sản phẩm, quan hệ với khách hàng và cả cách thức mà DN sản xuất sản phẩm. Đặc biệt, thu nhập hoạt động của DN không ổn định là bởi hoạt động tiêu thụ sản phẩm cũng như chi phí nguyên vật liệu đầu vào biến đổi một cách thường xuyên và rất khó lường trước.
Rủi ro kinh doanh của một DN được đo lường bằng những sai lệch của các luồng thu nhập qua thời gian. Tức là chúng ta sử dụng độ lệch chuẩn của một chuỗi bộ số liệu về thu nhập của DN trong quá khứ:
Rủi ro kinh doanh = Độ lệch chuẩn của các luồng thu nhập hoạt động/Thu nhập hoạt động trung bình
Độ lệch chuẩn của các luồng thu nhập hoạt động cho phép chúng ta so sánh rủi ro kinh doanh giữa các hãng với quy mô khác nhau. Để tính toán được chỉ số này, chúng ta phải có bộ số liệu từ 5 đến 10 năm. Nếu ít hơn 5 năm, việc phân tích sẽ không có ý nghĩa, còn nếu quá 10 năm thì kết quả tính toán sĩ bị coi là lỗi thời.
Bên cạnh việc tính toán rủi ro kinh doanh, cũng cần phải tính đến 2 nhân tố tác động đến sự biến đổi thu nhập hoạt động là mức biến đổi sản lượng và đòn bẩy hoạt động.
- Rủi ro tài chính: là loại rủi ro mà DN phải đối mặt khi huy động vốn từ các khoản nợ để tài trợ cho hoạt động của DN. Người ta thường tính toán rủi ro tài chính bằng việc xem xét cấu trúc vốn của một DN. Sự xuất hiện của các khoản nợ trong cấu trúc vốn sẽ tạo ra cho DN những nghĩa vụ trả lãi phải được thanh toán cho chủ nợ trước khi trả cổ tức cho cổ đông nên nó có tác động lớn đến thu nhập của họ. Rủi ro tài chính là rủi ro có thể tránh được trong phạm vi mà các nhà quản lý có toàn quyền quyết định vay hay không vay. Một DN không vay nợ chút nào sẽ không có rủi ro tài chính.
Mức độ rủi ro tài chính có thể chấp nhận được của DN phụ thuộc nhiều vào rủi ro kinh doanh. Với một DN có mức độ rủi ro kinh doanh thấp (thu nhập từ hoạt động ổn định), các nhà đầu tư thường chấp nhận một mức rủi ro tài chính cao hơn.
Trong phân tích rủi ro tài chính thường sử dụng 3 chỉ tiêu tài chính: tỷ lệ nợ so với vốn chủ sở hữu; tỷ lệ so sánh giữa thu nhập với chi phí cố định và chi phí trả lãi; tỷ lệ so sánh dòng tiền với chi phí tài chính hoặc so sánh các dòng tiền với giá trị sổ sách của các khoản nợ chưa trả.
Phân tích khả năng tăng trưởng
Phân tích khả năng tăng trưởng là nội dung quan trọng trong phân tích và định giá DN. Sự tăng trưởng của một DN cũng giống như sự tăng trưởng của nền kinh tế nói chung, nó phụ thuộc vào tổng khối lượng tài sản giữ lại và tái đầu tư; tỷ lệ thu nhập trên tài sản giữ lại và tái đầu tư.
Tỷ lệ lợi nhuận để lại càng cao thì tiềm năng tăng trưởng của DN càng lớn. Nói cách khác, với một mức lợi nhuận tái đầu tư cho trước, DN nào có tỷ lệ thu nhập trên tổng tải sản để lại càng cao thì sẽ có mức tăng trưởng cao hơn.
Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại được quyết định bởi HĐQT dựa trên các cơ hội đầu tư tiềm năng của DN. Một DN có thể giữ lại thu nhập và tái đầu tư, miễn là tỷ lệ thu nhập dự tính từ các khoản đầu tư đủ bù đắp chi phí vốn của DN. Theo phương pháp phân tích tài chính Dupont, DN có thể tăng ROE bằng cách tăng tỷ suất lợi nhuận biên, tăng cường hiệu quả hoạt động hoặc bằng cách tăng đòn bẩy tài chính. Tuy nhiên, việc tăng cường đòn bẩy tài chính có thể làm tăng rủi ro tài chính.
Tỷ lệ lợi nhuận giữ lại = 1 - (Cổ tức chi trả/thu nhập hoạt động sau thuế)
Các tỷ lệ phân phối lợi nhuận
Đây là các chỉ tiêu được rất nhiều các nhà đầu tư quan tâm, nó bao gồm:
* Thu nhập của mỗi cổ phiếu: EPS = Lợi nhuận sau thuế/số cổ phiếu lưu hành;
* Cổ tức = Lợi nhuận đem chia/số lượng cổ phiếu lưu hành;
* Tỷ lệ chi trả cổ tức = Lợi nhuận đem chia/lãi sau thuế = Cổ tức/EPS.
Tuy nhiên, trên thực tế, tỷ lệ chi trả cổ tức được xác định bằng tỷ lệ phần trăm giữa cổ tức được trả so với mệnh giá của cổ phiếu.
* Giá trên thu nhập = Giá cổ phiếu/EPS
* Tỷ lệ chi trả cổ tức so với giá trị sổ sách = D/BV
Các phân tích trên nhằm đánh giá thực trạng tài chính của DN, trong đó có hai nhân tố quan trọng nhất là thu nhập và rủi ro, trên cơ sở đó xác định giá chứng khoán; xác định và đánh giá mức độ rủi ro của cổ phiếu; xếp hạng nợ của DN; đánh giá khả năng phá sản DN.