Ông đánh giá như thế nào về thực trạng ứng dụng khoa học công nghệ trong công tác quản lý hải quan hiện nay?
Trong những năm gần đây, Cục Hải quan (trước đây là Tổng cục Hải quan) đã tích cực ứng dụng khoa học và công nghệ vào quản lý, đạt được nhiều kết quả quan trọng. Việc ứng dụng công nghệ đã được triển khai toàn diện, từ đầu tư thiết bị hiện đại đến nghiên cứu công nghệ tiên tiến, đặc biệt trong quản lý rủi ro và thủ tục hải quan.
Cục Hải quan đã hoàn thành mục tiêu 5E về ứng dụng công nghệ thông tin, tự động hóa 100% thủ tục hải quan cơ bản, và đạt 98,4% thu ngân sách qua phương thức điện tử. Cơ quan cũng triển khai giám sát hải quan tự động và hệ thống seal định vị điện tử GPS cho hàng hóa vận chuyển bằng container.
Bên cạnh đó, Cục Hải quan đẩy mạnh chuyển đổi số, tập trung vào đào tạo nhân lực và hợp tác quốc tế, đặc biệt là với Tổ chức Hải quan thế giới về ứng dụng công nghệ 4.0 như AI, Big Data, IoT, và Cloud Computing.
Tuy nhiên, việc ứng dụng khoa học và công nghệ trong công tác quản lý hải quan vẫn còn một số hạn chế. Hệ thống máy móc thiết bị hiện đại chưa được trang bị đầy đủ, và phần mềm VNACCS/VCIS do Nhật Bản viện trợ đã không còn phù hợp, dẫn đến lỗi trong xử lý thủ tục hải quan…
Với việc thay đổi mô hình tổ chức bộ máy, tinh gọn đầu mối các đơn vị và sắp tới đây sẽ là tinh giảm biên chế, cơ quan hải quan sẽ gặp phải những thách thức như thế nào? Khi đó, việc ứng dụng khoa học công nghệ sẽ có ý nghĩa gì với ngành Hải quan, thưa ông?
Có một số thách thức lớn cần giải quyết. Thứ nhất, toàn bộ hệ thống quy trình nghiệp vụ cần phải sửa đổi, điều chỉnh cho phù hợp với cơ quan tổ chức bộ máy mới. Thứ hai, phải nhanh chóng trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền sửa đổi các văn bản pháp luật liên quan đến thẩm quyền của các tổ chức, cá nhân trong hệ thống hải quan. Thứ ba, phải nhanh chóng điều chỉnh phần mềm đáp ứng thực tế thay đổi của tổ chức bộ máy. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng là sắp xếp lại bộ máy và tinh giản biên chế nhưng vẫn phải đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Trong bối cảnh đó, ứng dụng khoa học công nghệ chính là cứu cánh và là yếu tố then chốt để góp phần giải quyết các thách thức đó. Chúng ta đều đã thấy rằng trong thời đại ngày nay, khoa học công nghệ đã thực sự trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp. Với hệ thống máy móc thiết bị hiện đại và các công nghệ hiện đại như AI, Blockchain, IoT…, sẽ không cần nhiều nhân lực cho nhiều công việc nghiệp vụ, không chỉ công việc đơn giản mà cả những công việc đòi hỏi cao về chất xám như: phân tích dữ liệu, quản lý rủi ro…
Đặc biệt, hải quan với môi trường làm việc trải rộng khắp mọi miền tổ quốc và xử lý khối lượng công việc vô cùng lớn thì chỉ có công nghệ hiện đại gắn với chuyển đổi số xử lý dữ liệu tập trung, ra quyết định tập trung mới đáp ứng yêu cầu thực tiễn, qua đó, nâng cao hiệu quả và hiệu lực quản lý nhà nước về hải quan.
![]() |
Theo phản ánh từ Cục Hải quan, trong quá trình ứng dụng công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, một số vướng mắc đã phát sinh. Một trong số đó là việc cơ chế tài chính đặc thù của Cục Hải quan không còn được duy trì từ ngày 1/7/2024 nên quá trình chuyển đổi số, đầu tư cho khoa học công nghệ gặp khó. Theo ông, vấn đề này có thể được giải quyết bằng giải pháp nào?
Tài chính luôn là vấn đề cốt lõi của mọi hoạt động. Không có hoặc không có đủ nguồn lực tài chính thì không thể đầu tư đầy đủ cho cơ sở vật chất và con người. Tôi cho rằng, cần tiếp tục đề xuất cơ quan có thẩm quyền xem xét cho Cục Hải quan được áp dụng cơ chế tài chính đặc thù trên cơ sở chỉnh sửa những điểm không còn phù hợp của cơ chế tài chính đặc thù cũ. Hoặc cần có cơ chế tài chính khác riêng cho hoạt động chuyển đổi số của Cục Hải quan.
Để ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo mạnh mẽ hơn trong thời gian tới, hướng tới Hải quan thông minh, hiện đại như mục tiêu đã đề ra, ngành Hải quan cần phải làm gì, thưa ông?
Có rất nhiều việc quan trọng cần làm với tinh thần cơ bản là cụ thể hóa các định hướng và giải pháp đã được nêu trong Nghị quyết 57-NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia của Bộ Chính trị. Trong đó, cần chú ý đặc biệt đến việc nghiên cứu ban hành Nghị quyết chuyên đề của Đảng ủy Cục Hải quan về việc thực hiện Nghị quyết nói trên; tổ chức nghiên cứu và ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo và một số công nghệ số áp dụng trong một số lĩnh vực cụ thể quản lý nhà nước về hải quan.
Cục Hải quan cũng cần thành lập bộ phận chuyên trách giúp việc Ban chỉ đạo về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số và bộ phận nghiên cứu ứng dụng trí tuệ nhân tạo và các công nghệ số của Cục Hải quan.
Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh công tác đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong lĩnh vực hải quan.
Và cuối cùng, không kém phần quan trọng là tăng cường hoạt động hợp tác quốc tế trong phát triển khoa học, công nghệ đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.