Nhóm doanh nghiệp thuỷ điện kỳ vọng hưởng lợi khi hiện tượng La Nina đang quay trở lại

Nhóm doanh nghiệp thuỷ điện kỳ vọng hưởng lợi khi hiện tượng La Nina đang quay trở lại

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Trên khắp khu vực Đông Nam Á, các cơ quan dự báo thời tiết dự đoán tình hình thời tiết ẩm ướt sẽ diễn ra trong ít nhất hai tháng tới, và có thể báo hiệu sự chuyển dịch sang thời điểm bắt đầu hiện tượng La Nina.

La Nina là gì và dự kiến ​​sẽ kéo dài trong bao lâu?

La Nina là một mô hình thời tiết liên quan đến nhiệt độ trên bề mặt biển Thái Bình Dương, thường kéo dài trong nhiều tháng đến khoảng một năm.

“Trong điều kiện bình thường, biển ở khu vực Tây Thái Bình Dương mát hơn biển ở khu vực Đông Thái Bình Dương”, Tiến sĩ Wang Jingyu, phó giáo sư địa lý vật lý tại Viện Giáo dục Quốc gia (NIE) cho biết.

Trong điều kiện La Nina, nhiệt độ bề mặt biển ở khu vực Tây Thái Bình Dương ấm hơn từ 0,5 đến 1 độ C. Và khi nhiệt độ bề mặt của nước ấm hơn, nhiều nước bốc hơi hơn, điều này làm tăng độ ẩm ở tầng khí quyển thấp hơn, từ đó dẫn đến nhiều mưa hơn.

Trung tâm Khí tượng Đặc biệt ASEAN (ASMC) cho biết vào đầu tháng này rằng, tình trạng La Nina có thể sẽ kéo dài từ tháng 10 đến tháng 11 trở đi, với hầu hết các mô hình dự đoán hiện tượng này sẽ kéo dài đến đầu năm 2025.

ASMC cho biết, lượng mưa cao hơn bình thường được dự đoán sẽ xảy ra ở phần lớn khu vực phía Nam của Đông Nam Á trong giai đoạn dự báo này.

“Trong khi đó, Cơ quan Quản lý Khí quyển và Đại dương Quốc gia (NOAA) dự đoán có xác suất 60% khả năng La Nina sẽ xuất hiện vào tháng 11 và kéo dài từ tháng 1 đến tháng 3 năm sau”, Giáo sư Matthias Roth từ khoa địa lý của Đại học Quốc gia Singapore cho biết.

Điều này có ý nghĩa gì đối với khu vực?

Tiến sĩ Dhrubajyoti Samanta, nghiên cứu viên cao cấp của Đài quan sát Trái đất Singapore tại Đại học Công nghệ Nanyang chỉ ra rằng, NOAA dự báo La Nina lần này sẽ suy yếu ở Đông Nam Á. Điều này dẫn tới khả năng nhiệt độ sẽ không quá ẩm ướt hoặc đáng lo ngại nghiêm trọng như hiện tượng La Nina thông thường.

Tiến sĩ Samanta cho biết, những điều kiện như vậy thậm chí có thể hữu ích cho việc bổ sung nước ngầm (nước thấm vào các lớp đất sâu hơn) và nông nghiệp, đồng thời cải thiện chất lượng không khí.

Nhưng Giáo sư Matthias Roth lưu ý rằng La Nina trong vài tháng tới sẽ trùng với mùa gió mùa Đông Bắc, vốn đã là thời điểm ẩm ướt nhất trong năm.

Ngoài nhiệt độ không khí mát hơn, khả năng xảy ra lũ lụt cục bộ sẽ tăng lên khi lượng mưa cao hơn mức trung bình trùng với thời kỳ mực nước biển đã cao, chẳng hạn như trong thời gian thủy triều cao theo mùa.

Tiến sĩ Wang cho biết, một số quốc gia Đông Nam Á có thể chứng kiến ​​nguy cơ lũ lụt cao hơn ở những vùng trũng thấp có hệ thống thoát nước kém và lở đất hoặc lở bùn ở các vùng núi.

Ngoài mối đe dọa đến sức khỏe cộng đồng và tính mạng con người, điều này cũng có thể làm gián đoạn lịch trình trồng trọt và thu hoạch hoặc tệ hơn là phá hủy mùa màng, do đó làm giảm năng suất nông nghiệp và gây ra thiệt hại kinh tế.

Lũ lụt năm 2021 ở Malaysia đã ảnh hưởng đến hơn 10.000 ha đất nông nghiệp, khiến năng suất lúa giảm hơn 200.000 tấn. Sau đó, Malaysia đã mất nhiều năm để phục hồi thiệt hại về cơ sở hạ tầng và sản lượng lúa gạo của nước này vẫn chưa đạt mức tối ưu.

Hiện tại, hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đang phải đối phó với hậu quả của những cơn bão có sức tàn phá mạnh trong những tháng gần đây.

Bão Yagi đã mang theo gió mạnh và mưa như trút nước đến Việt Nam, Thái Lan, Lào và Myanmar vào tháng 9, khiến hàng trăm người thiệt mạng và phá hủy các nhà máy và đất nông nghiệp.

Và Philippines đã hứng chịu một số cơn bão trong những tháng gần đây, bao gồm Bão Gaemi vào tháng 7, Bão Yagi vào tháng 9 và Bão Krathon vào tháng 10.

Điều này có ý nghĩa gì đối với xu hướng khí hậu dài hạn?

Dự báo hiện tượng La Nina lần này không hoàn toàn giống với những gì mà Đông Nam Á đã trải qua La Nina từ năm 2020 đến năm 2022 và từ năm 1998 đến năm 2001.

Các chuyên gia lưu ý rằng khu vực Đông Nam Á đang phải hứng chịu nhiều hơn cả lượng mưa và điều kiện ấm hơn do biến đổi khí hậu.

Tiến sĩ Wang cho biết: "Nằm ở vùng nhiệt đới sâu, Singapore trước đây ít bị ảnh hưởng bởi biến đổi khí hậu hơn so với các quốc gia vĩ độ trung bình khác…Tuy nhiên, khi tình trạng nóng lên toàn cầu tăng tốc, chúng ta bắt đầu thấy các hiện tượng thời tiết và khí hậu cực đoan xảy ra thường xuyên hơn trên đảo".

“Những sự kiện mà chỉ xảy ra một lần trong một thế kỷ trước đây có thể xảy ra một lần trong một thập kỷ, hoặc thậm chí tệ hơn, một năm xảy ra một lần trong vài năm tới. Chúng ta cần phải hành động. Mọi nỗ lực nhằm giảm lượng khí thải carbon vẫn có giá trị trước khi quá muộn”, ông cho biết thêm.

Doanh nghiệp thuỷ điện trong nước kỳ vọng hưởng lợi khi La Nina quay trở lại

Tại Việt Nam, hiện tượng La Nina đã quay trở lại từ nửa cuối năm 2024, điều này cũng đã tác động tới nhiều lĩnh vực và doanh nghiệp niêm yết trên sàn, đặc biệt là doanh nghiệp thuỷ điện.

Trong Báo cáo phân tích mới đây, Chứng khoán Rồng Việt tiếp tục duy trì quan điểm tích cực nhóm các công ty thủy điện.

Trong đó, 9 tháng đầu năm 2024, sản lượng thủy điện toàn hệ thống đã tăng trưởng 13% lên 66 tỷ kWh và tỷ lệ huy động từ nguồn thủy điện bắt đầu cao hơn so với cùng kỳ do chu kỳ El Nino đã đi qua, trái ngược với diễn biến trong nửa đầu năm 2024.

Xác suất La Nina diễn ra ngày một tăng trong nửa cuối năm 2024

Xác suất La Nina diễn ra ngày một tăng trong nửa cuối năm 2024

“Theo quan điểm của chúng tôi, sản lượng các công ty thủy điện sẽ cải thiện từ nửa cuối năm 2024, và tăng trưởng tốt trong năm 2025 nhờ chu kỳ thủy văn thuận lợi và chi phí sản xuất thấp hơn các loại hình phát điện khác. Cụ thể, chi phí sản xuất điện/kWh các công ty thủy điện đa phần nằm ở mức 400 – 600 đồng/kWh, thấp hơn nhiều so với mức bình quân 1.100 – 1.300 đồng/kWh của các công ty nhiệt điện than”, Rồng Việt nhận định.

Về dài hạn, Chứng khoán Rồng Việt lưu ý rằng rủi ro thiếu điện vẫn hiện hữu cho giai đoạn 2026-2030. Khu vực miền Bắc với nhu cầu phụ tải cực đại lên tới 23,6GW trong khi công suất lắp đặt chỉ 28,6GW, cho thấy tỷ lệ dự phòng rất thấp.

“Chúng tôi cho rằng khi chu kỳ El Nino quay trở lại, khu vực miền Bắc vẫn còn rủi ro thiếu điện cục bộ trong giai đoạn cao điểm nắng nóng, với khả năng cao rơi vào năm 2026 - 2027. Việc phát triển các nguồn điện truyền thống như điện than, thủy điện gặp vấn đề giới hạn công suất, trong khi việc phát triển nhiệt điện khí LNG có rủi ro không kịp tiến độ quy hoạch trong giai đoạn 2025-2030, và các dự án Nhơn Trạch 3-4 của PV Power (mã POW) sẽ là dự án điện khí LNG hiếm hoi kịp vận hành trong giai đoạn này”, Chứng khoán Rồng Việt nhận định thêm.

Tin bài liên quan