Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là quy định mức độ độc lập như thế nào cho phù hợp với thể chế kinh tế, chính trị, lịch sử, văn hoá của Việt Nam.
Thực tế, NHTW các nước trên thế giới hiện nay đều có sự độc lập nhất định trong hoạt động ở 3 lĩnh vực: điều hành chính sách tiền tệ (CSTT), giám sát các tổ chức tín dụng (TCTD) và quản trị điều hành nội bộ, tuy nhiên mức độ độc lập là không giống nhau. Độc lập về điều hành CSTT, theo tổng kết của IMF, sự độc lập của NHTW các nước có thể chia ra làm 4 mức độ:
(1) Mức độ cao nhất là “độc lập trong việc thiết lập mục tiêu”: NHTW có trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ và chế độ tỷ giá nếu như nó không được thả nổi.
(2) Mức độ độc lập thứ 2 là “độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu hoạt động”: NHTW được trao trách nhiệm quyết định chính sách tiền tệ và chế độ tỷ giá nhưng khác với kiểu độc lập về mục tiêu, độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu hoạt động có một mục tiêu chủ yếu đã được xác định rõ ràng trong luật.
(3) Mức độ độc lập thấp hơn là “độc lập trong việc lựa chọn công cụ điều hành”: Chính phủ hoặc Quốc hội quyết định chỉ tiêu chính sách tiền tệ, có sự bàn bạc, thỏa thuận với NHTW. NHTW có trách nhiệm hoàn thành chỉ tiêu.
(4) Mức độ độc lập thấp nhất là “độc lập bị hạn chế thậm chí không có”: Chính phủ sẽ quyết định chính sách (cả mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như là can thiệp vào quá trình triển khai thực thi chính sách.
Độc lập bao nhiêu?
Đối chiếu với các mức độ độc lập nêu trên thì NHNN Việt
Hướng ưu tiên
Các quy định trên cho thấy tính độc lập trong hoạt động của NHNN Việt
Với thực tế hiện nay, NHNN là một cơ quan của Chính phủ, Thống đốc NHNN là Thành viên của Chính phủ và với chức năng nhiệm vụ của các bộ, ngành hiện nay thì mức độ độc lập trong thực thi CSTT nên ở mức tự chủ trong việc lựa chọn công cụ điều hành là phù hợp hơn cả. Tại Quyết định 112 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến 2020 cũng đã ghi rõ: “NHNN độc lập, tự chủ trong việc xây dựng, điều hành chính sách tiền tệ, lãi suất và tỷ giá hối đoái”.
Ở mức độ tự chủ này, NHNN có đủ thẩm quyền để quyết định cung tiền, lựa chọn các công cụ CSTT một cách tốt nhất sao cho đạt được các tiêu chí về CSTT, cơ chế tỷ giá và lạm phát được Chính phủ hoặc Quốc hội giao trên cơ sở ý kiến đệ trình của NHNN. Sở dĩ phải giao cho NHNN thẩm quyền quyết định cung tiền, lựa chọn các công cụ CSTT trong điều hành là vì, xuất phát từ một thực tế là các thông tin kinh tế có tác động đến tiền tệ và các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô thu thập được, nói chung là không có sự hoàn hảo và những đặc tính kỹ thuật của thị trường tài chính là rất phức tạp, đòi hỏi cơ quan quản lý phải có tính linh hoạt, mềm dẻo trong cách tiếp cận, quyết định nhanh trước những thay đổi của thị trường. Điều này càng có sức thuyết phục hơn khi mà các NHTW đang nhanh chóng tiến tới sử dụng các công cụ gián tiếp để đạt tới các mục tiêu chính sách tiền tệ của họ. Hình thức tự chủ này cũng đòi hỏi NHNN phải có sự hiểu biết sâu sắc về sự vận hành của các thị trường tài chính và các công cụ quản lý vốn khả dụng của hệ thống ngân hàng, năng lực phân tích và dự báo.
Ngoài ra, hình thức tự chủ này còn cho phép có sự phối hợp hài hoà giữa chính sách tiền tệ với các mục tiêu của chính sách kinh tế tổng thể của một quốc gia trong một giai đoạn nhất định, thường từ 3 tới 5 năm. Đồng thời nâng cao trách nhiệm của NHNN trong việc giải trình đầy đủ những hành động của mình về CSTT trước Quốc hội và Chính phủ, tính công khai minh bạch đầy đủ về hoạt động của NHNN. Hơn nữa, nó cũng hạn chế sự can thiệp của các nhà chính trị đến các quyết sách của NHNN…